YTTL: Khôn hóa thái chân 4

Khôn hóa thái chân (những điểm trọng yếu về hậu thiên tỳ vỵ) nói về cơ năng tiêu hóa, tác dụng của khí huyết, bệnh lý và phép chữa, hầu hết vận dụng Bổ trung ích khí, Tứ quân, Tứ vật, Bát trân, Thập toàn, Quy tỳ, Nhân sâm dưỡng vinh.

KHÔN HÓA THÁI CHÂN
Phần 4
1. Thuyết thăng - giáng - phù - trầm.
  • Trời lấy khí dương để sinh, khí âm để trưởng (nuôi cho lớn); Đất lấy khí dương để giảm bớt, khí âm để cất chứa.
  • Khí trời bắt đầu vượng từ giờ Dần – chữ Dần có ý nghĩa như dẫn lên, ngày lập xuân, khí của Thiếu dương bắt đầu phát sinh từ dưới đất, dẫn khí âm cho thăng lên, loài cỏ cây mới bắt đầu nảy mầm.
  • Ngày lập hạ, Thiếu âm hỏa thịnh, loài cỏ cây rậm tốt... Đó là cái nghĩa “trời lấy khí dương để sinh, khí âm để trưởng” ở trên. Nội kinh nói: “thượng bán niên khí trời làm chủ”, tức là trỏ cái công dụng “thăng, phù” đó.
  • Khí của đất bắt đầu vượng từ giờ Thân – chữ Thân có ý nghĩa như phát triển thêm ra. Ngày lập Thu, khí của Thái âm mới được hoàn toàn phát triển, từ trên trời giáng thẳng xuống tới đất, các loài vật đều bị giảm sút.
  • Ngày lập đông khí của Thiếu âm lại phục ở “dưới đất” khiến cho đất nẻ, nước đóng thành băng... đó là cái nghĩa “đất lấy khí Dương để giảm bớt, khí âm để tàng chứa’ ở trên. Nội kinh nói: “hạ bán niên, khí đất làm chủ”, tức là trỏ cái công dụng “giáng, trầm” đó.
  • Mùa Xuân ấm, mùa Hạ nóng, mùa Thu mát, mùa Đông lạnh... đó là thứ tự của chính khí; thăng rồi giáng, giáng rồi lại thăng; như cái vòng không đầu mối, để vận hóa muôn vật. Cho nên nói: “bắt đầu mối từ đầu, lần lượt không sai...”.
  • Hơi thở hít thăng giáng của con người cũng không khác chi vận khí của trời đất. Uống ăn vào Vị , khí bắt đầu dẫn tới Tỳ, Phế, thi hành cái vòng luật của Xuân Hạ để nuôi nấng khắp thân thể... tức là cái nghĩa “thanh khí là trời” đó. Sau khi thăng rồi, lại dẫn trở xuống Bàng quang thi hành các quy luật của Thu Đông để bài tiết bỏ các chất cặn bã... tức là cái nghĩa “trọc âm là đất” đó.
  • Nếu làm tổn thương chân khí của Tỳ, dồn xuống hoặc bài tiết xuống mà lâu không thăng lên được, như vậy chỉ có Thu Đông mà không có Xuân Hạ, mọi bệnh sẽ do đó mà phát sinh.
  • Lại có trường hợp thăng mãi mà không giáng xuống được cũng sẽ thành bệnh. Do đó mà suy thời cái nghĩa “thắt mối từ đầu” sẽ rõ.
  • Nếu uống ăn không dè dặt, làm tổn đến Vị khí, không phát triển được cái công năng “khắc hóa”, “tản lên Can, trở về Tâm, tràn lên Phế” v.v... hễ ăn thời li bì chỉ muốn nằm; khi nằm xuống thời thức ăn sẽ dồn về một bên, khí tạm được dễ chịu (dễ thở, không bị vít lấp), xem vậy thời biết cái khí “thăng phát” không thi hành được là do duyên cớ đó.
  • Tỳ, Vị là cơ quan chủ của cả năm Tạng, các khí phong, hàn, thử, thấp, táo... lỡ gặp khí thiên thắng sẽ bị tổn thương. Như mạch Huyền là do phong thắng, nên dùng các bài như Vị phong thang, Hoàng kỳ kiến trung thang, Tam bạch thang.
  • Nếu mạch Hồng là thử tà nó hãm, nên dùng các bài Tả hoàng tán, hoặc Thanh Vị tán, Điều Vị thừa khí thang.
  • Mạch sác là táo tà nó lấn, nên dùng bài Bát trân thang, Tiền thị Bạch truật tán.
  • Mạch Trầm tế là bị hàn tà nó lấn, nên dùng các bài Ích nguyên tán, Nhân sâm dưỡng vị thang, hoàn, Phụ tử Lý trung thang, Bổ chân hoàn.
  • Mạch Hoãn, nhu vô lực, hoặc có lúc ẩn phục, đó là do chính khí hư và tổn, nên dùng các bài Tứ quân tử thang, Sâm linh bạch truật tán.
  • Mạch Hoãn thái quá là bị thấp tà quá nặng, nên dùng Bình Vị tán.
  • Muốn bổ dùng Bổ trung ích khí thang; muốn táo thấp dùng Nhị trần thang, Lục quân tử thang, Sinh Vị thang và Đan thương truật cao...​
2. Cách chữa bệnh thuộc loại hậu thiên tỳ vị
(Gồm các luận thuyết, phương thư và mạch chỉ của các Y gia)
  • Vị khí hư thời tai, mắt, miệng, mũi đều mắc bệnh. Như các chứng mình nóng, nhức đầu, ù tai, mắt mờ, bệnh thế trầm trọng, v.v... là do nhiệt làm tổn nguyên khí; nếu mặt nóng là bệnh ở Vị .
  • Tỳ Vị đều hư thời không ăn được mà gầy; hoặc ăn ít mà lại béo, nhưng dù béo mà tay chân lại yếu ớt, đó là Tỳ thực mà tà khí thịnh. Cho nên tỳ mắc bệnh thời ảnh hưởng tới Thận, tức là thổ khắc thủy, sẽ gây nên chứng xương tủy rỗng không, kém sức. Chân không bước xuống đất được... Đó là do âm khí quá nhiều,âm đã nhiều Dương sẽ hư. Đối với chứng này, cho ra mồ hôi thì khỏi, nếu dùng thuốc “hạ” thời chết ngay. Nhưng không phải là dùng thuốc phát hãn thẳng ngay đâu, chỉ nên dùng những thứ thuốc khí vị tân, cam để thấm nhuần cho Vị ; nên thăng, phù khiến cái khí sinh trưởng vượng thịnh thêm, tức là giúp cho phần dương của Vị đó thôi.
  • Vị mắc bệnh thời mạch Hoãn, Tỳ mắc bệnh thời mạch Trì. Nếu Hỏa lấn lên vị trí của Thổ thì mạch sẽ Hồng Hoãn. Lại có chứng mình nóng, trong tâm khó chịu, đó là dương khí suy yếu, nên dựa theo các phép thăng, giáng, phù, trầm, bổ, tả để dùng thuốc. Như Tỳ Vị hư đã lâu, mắt trông, tai nghe đều kém, gặp khi mưa dầm ẩm thấm hơn tháng không tạnh, sẽ sinh ra các chứng “Kiết lỵ”, thân thể nặng nề, các khớp xương ở tay chân đều đau, đại tiện lỏng, tiểu tiện vít, v.v... Nếu dùng loại thuốc “nhạt, thấm” để chữa thời bệnh dù khỏi ngay, nhưng chính là đã giáng mà lại càng làm cho giáng thêm, lại giúp ích cho phần m mà càng làm kiệt mất phần Dương, do đó dương khí càng hết mà tinh thần càng kém. Cho nên gặp chứng hậu trên, nhất định phải dùng những vị thuốc có tác dụng làm cho Dương khí thăng lên như Khương hoạt, Độc hoạt, Sài hồ, Thăng ma (mỗi vị 1 đồng cân); Phòng phong, Cam thảo (mỗi vị 5 phân) đun lấy nước, uống hơi nóng... dương khí sẽ thăng lên được mà bệnh khỏi.
  • Tỳ Vị hư tổn thường phát sinh ra chứng đau mắt, mình, mặt và lòng mắt đều vàng, tiểu tiện hoặc vàng hoặc trắng, đại tiện phân lúc cứng lúc nát, ăn ít, hơi ngắn, ợ hơi (hoặc suyễn), mỏi mệt. Cho uống bài Tả Can tán mà các chứng trên càng nặng thêm, đó là gặp phải thời kỳ vừa nắng mưa nhiều mà bệnh nhân sẵn có chứng vàng da nên mới có hiện tượng như vậy. Nhân đó, tôi nghĩ ra bài Thanh thần ích khí thang để chữa như sau:
    • Phục linh: 2 phân
    • Thăng ma: 2 phân
    • Trạch tả: 3 phân
    • Thương truật: 3 phân
    • Phòng phong: 3 phân
    • Sinh khương: 4 phân
  • Mấy vị đó có tác dụng dẫn kinh để trừ thấp nhiệt mà không phải cố thủ một nơi, cho nên không tả cái trung khí hư nhược của Phế Tỳ Vị .
    • Thanh bì: 1 phân
    • Quất bì: 2 phân
    • Sinh cam thảo: 2 phân
    • Bạch truật: 2 phân
    • Bạch thược: 2 phân
  • Mấy vị đó có tác dụng giữ ở bản tạng mà không dẫn kinh; không dẫn kinh nên không giúp ích tà ở trong kinh lạc; vì giữ ở bản Tạng nên có tác dụng bổ được nguyên khí của tạng.
    • Hoàng bá: 5 phân
    • Mạch môn: 5 phân
    • Nhân sâm: 5 phân
    • Ngũ vị: 5 phân
  • Bấy nhiêu vị sắc lấy uống nóng vào lúc đói, bài thuốc trên có tác dụng trừ bỏ khí phù nhiệt và thấp nhiệt của thời tiết. Trên đây là ghi ra hai bài để làm tỷ dụ.
  • Nếu mạch Hoãn mỏi mệt, chỉ ưa nằm, tay chân bủn rủn hoặc đại tiện tiết tả, đó là do khí Thấp nhiều hơn, nên dùng bài Bình Vị tán (gặp chứng này mà dùng bài Hoàng kỳ kiến trung thang thì lầm).
  • Nếu mạch Huyền, khí yếu, tự ra mồ hôi, tay chân phát nhiệt, tiết tả, da se, tóc rụng dùng bài Hoàng kỳ kiến trung thang (gặp chứng này mà dùng bài Bình Vị tán thì lầm).
  • Nếu mạch hư, huyết nhược thời dùng trọn dùng một vài vị trong bài Tứ vật. Mạch nhược, khí đoản (ngắn) thời dùng bài Tứ quân.
  • Nếu hoặc khát, hoặc tiểu tiện vít, rít, vàng đỏ, dùng bài Ngũ linh tán bỏ Quế, hoặc chọn vài vị... đều dựa theo “bản chứng” mà gia thêm.
  • Như trong bụng bức bách khó chịu, đó không phải là “phúc trướng”, chỉ là “tán” mà không “thu”, nên gia Thược dược cho thu lại; nếu hơi thở ngắn và gấp hoặc không được đầy đủ, thời gia Nhân sâm và Bạch thược. Tại bộ phận Trung tiêu mà dùng Thược dược, thời khí dương ở trong Tỳ thăng lên được mà tà của Can, Đởm không dám phạm. Nếu trong bụng như bị chèn ép hoặc co rút lại thời bỏ đi, cho đến cả các vị có tính chất “chua chát” cũng không nên dùng.
  • Bụng đau thời gia Bạch thược, Cam thảo (do khí vị của loài lúa làm nên vị ngọt, vị ngọt thuộc Kỷ; do tính chất của loài Mộc làm nên vị chua; vị chua thuộc Giáp, Giáp với Kỷ hợp lại sẽ hóa ra Thổ, đó là một diệu pháp của Trọng Cảnh). Bài Ngũ linh tán chữa chứng khát mà tiểu tiện không lợi, nếu không có chứng sợ lạnh thời không được dùng Quế, không khát mà tiểu tiện tư lợi, mắt trông tai nghe đều phát sinh những hiện tượng quái gở... Đó là thuộc về chứng có ứ huyết, nên dùng Hoàng bá, Tri mẫu (sao) để trừ nhiệt.
  • Nếu tâm nhiệt mà khiếu không thông thời dùng bài Đạo xích tán.
  • Nếu lúc đi ngoài chỉ ngồi mà phân không ra, là do huyết hư, huyết hư thời lý cấp (bên trong như vẻ muốn đi ngoài mà sao lại không đi được); hoặc huyết hư khí nhược mà trong lòng con mắt đau nhức, nên gia bội Đương quy. Muốn điều lý Tỳ Vị cứ lựa gia trong năm vị đó rất công hiệu. Nhưng kết quả vẫn khó lòng bình phục hoàn toàn, vì tất cả các chứng kể trên, khó nhất là chứng Tỳ Vị hư hại, rồi đến chứng phát sinh bởi tửu sắc quá độ.
  • Bệnh hư tổn, Tỳ Vị dễ bị thương, nhưng nó chỉ yếu thôi, thời có thể khỏi được một nửa. Cho nên những người làm ruộng, đốn củi dù vất vả mà không đến nỗi bị thương vẫn ăn được, tiêu hóa được, là do Tỳ Vị khỏe đó thôi. Sau hoặc có vì cớ gì mà lại mắc bệnh, cũng chỉ do âm hỏa của ba kinh Đốc, Xung, Nhâm biến thành tà, và Tỳ khí hư yếu mà gây nên. Chỉ nên tùy chứng để gia giảm, nếu lại đặt sẵn bài thuốc để phòng bệnh, thời trái mất với nghĩa của Nội kinh.
  • Kinh nói: “... Nên đến mà không đến là bất cập; cái thắng đi càn, cái sinh ra nó sẽ bị bệnh mà cái không thắng sẽ lẫn theo...”.
  • “Nên đến mà không đến” có ý nói cái tới sau đó là hư tà, Tâm với Tiểu trường sẽ lấn lên Tỳ Vị ; mạch của Tỳ Vị sẽ phát hiện Phù, Đại và Huyền, người mắc bệnh hoặc tay chân nóng, phiền táo, rối loạn, miệng đắng, lưỡi khô... Bởi tâm chủ hỏa, Tiểu trường chủ nhiệt, Hỏa với nhiệt phạm lên Thổ vị, Thấp nhiệt sẽ cùng hợp với nhau mới có hiện tượng phiền táo, rối loạn; Tay chân là bộ phận ngọn của Tỳ Vị , vì hỏa phạm vào nên nó phát nhiệt; ăn uống không điều độ, làm lụng quá sức mình khiến Tỳ Vị bị hư yếu đó là do huyết sinh ra bệnh, tân dịch không dẫn lên miệng được nên mới có chứng họng khô, miệng ráo, Kỵ dùng bài Ngũ linh tán (vì làm mất tân dịch) nên bổ ngay từ mẹ, tức là do Tâm với Tiểu trường để bổ nơi gốc rễ của Tỳ Vị . Dùng cam ôn làm quân (Bạch truật), khổ hàn làm sứ (Hoàng liên), vị chua (Bạch thược) làm thần tá, đó là theo cái nghĩa “Tâm khổ về hoãn, kíp ăn vị chua có thu liễm lại” (tức là chữa tâm hỏa không sinh ra được Thổ, là bất cập).
  • Tâm hỏa vượng thì Phế kim bị tà, Kim hư thời dùng “chua” để bổ, rồi dùng tới các vị cam ôn hàn (như Cầm, Liên, Tri, Bá và Sinh địa, v.v...) đó là do trong Tỳ Vị để tả bỏ cái khí thịnh quá của Tâm hỏa, như vậy tức là trị từ gốc (Hỏa thịnh lấn tràn sang Tỳ, cũng là bất cập. Thận hỏa tức là m hỏa, nó khởi từ Hạ tiêu, mà liên hệ lên Tâm. Tâm không làm chủ mệnh lệnh, Tướng hỏa phải làm thay. Tướng hỏa là thứ hỏa của Bào lạc ở hạ tiêu, nó là loài “tặc hại” của nguyên khí. Hỏa với nguyên khí không cùng tồn tại với nhau, một bên được thời một bên thua... Nếu mạch thấy Hồng Đại, ít khát mà hơi nhuyễn, là do hỏa vượng mà quá suy. Thuyết “Tướng hỏa” này phát minh từ Lý Đông Viên, nói lên được một nghĩa mà Tố Vấn chưa từng đề ra).
  • “Cái thắng đi càn” là ý nói Tâm hỏa vượng, nó có thể làm cho mẹ nó thực (mẹ tức Can mộc). Mộc vượng sẽ kèm cả hỏa mà đi càn, cho nên Tỳ Vị bị bệnh trước. Hoặc phát sinh các chứng thân thể nặng nề, rồi dồn lên sườn thành chứng “Hiếp thống”... Bởi thấp với nhiệt cùng chọi nhau, phong với nhiệt bị uất lại không phát triển ra được liền bám vào bộ phận hữu hình. Hoặc phát sinh chứng hay cáu giận, đó là do phong với nhiệt bị hãm vào trong đất (tức Thổ Tỳ Vị ); hoặc phát sinh chứng đau mắt nội chướng, nguyên nhân bởi can chủ tàng huyết, khai khiếu lên mắt, mới có những chứng ấy.
  • Cũng có khi mắt trông, tai nghe, đều là những hiện tượng càn bậy, hàng ngày trong Tâm nghĩ vớ vẩn, đêm thời mơ thấy những người đã chết; hoặc lúc nóng lúc lạnh; hoặc tay chân bằng bẵng như bị vít lấp, hoặc tiểu tiện nhỏ giọt, đại tiện khó khăn, chuyển gân, v.v... Đều do can mộc quá thịnh nó gây nên.
  • Cái tà của Can mộc quá thịnh đó, hoặc lại sinh các chứng Nuy, chứng Tý, chứng Quyết, hoặc Trúng phong; hoặc sinh Mụn độc; hoặc thành Thận nuy; hoặc Thượng nhiệt hạ hàn... Chứng trạng không nhất định, đều do phong nhiệt không được thăng trưởng, mà tà của mộc hỏa bị ngăn cản ở bên trong hữu hình. Nên dùng Sài hồ làm quân, Phòng phong, Cam thảo, Xích thược, Quế chi làm thần; Trư linh, Trạch tả, Phục linh, Tri mẫu, Hoàng bá, Thương truật, Hoạt thạch, Thạch cao, Khương hoạt, Xuyên khung, Độc hoạt, Tế tân, Mạn kinh tử làm tá; Thăng ma làm sứ... Kinh nói: “...
  • Chỉ có Dương minh, Quyết âm không theo tiêu bản; theo về “trung” (giữa) để chữa...”. “Trung” là một lời nói không nhất định, khác với tiếng “trong, ngoài”. Bởi Quyết âm là lãnh tụ của 12 Kinh chủ về sự sinh hóa của m Dương; Dương minh là bể của 12 kinh chủ việc kinh doanh khí, huyết. Các kinh khác đều nhờ ở đó, Dương minh, Quyết âm cùng hợp với kinh nào phát sinh tật bệnh, sẽ nhằm vào khoảng giữa tức là “trung” để chữa.
  • Sở dĩ nói như vậy, mục đích là nói rõ bệnh ở Tỳ Vị không thể chỉ cứ theo một chiều để chữa, nhất là cho mọi người đều biết các tật bệnh phần nhiều do Tỳ Vị gây nên, nếu sai một ly là đi một dặm. Thí dụ gặp mùa Trưởng hạ, phải chú trọng vào điểm chủ khí suy mà khách khí vượng để ấn định bài thuốc thời mới đúng. Người sau nên theo phương pháp đó mà nhớ gia các vị thuốc dựa theo thời tiết. Như tháng Trưởng hạ thời bổ Tỳ Vị , tả âm hỏa mà thăng dương. Theo đúng được phương pháp và dược vật trên đó là muốn cho dương khí được thăng phù, mà cấm hẳn các vị có tính chất “thấm tiết” và “tư âm”, tuy nhiên cũng có khi phải dùng các vị như Hoàng bá, Tri mẫu, là do ba mạch Đốc, Xung, Nhâm quá thịnh nên mới tòng quyền tạm dùng mà thôi.
  • “Cái nơi sinh nó mắc bệnh” là do Thổ yếu không sinh được Kim, lại bị cái tà của Hỏa và Mộc, khiến cái khí “dịu lắng” bị thương; hoặc sinh chứng tức ngực, ít hơi và ngắn hơi... đó là do Phế chủ về mọi thứ khí, đồng thời khí của năm tạng đều không đủ, nên “dương đạo” sẽ không phát triển được mà gây nên. Có khi phát sinh chứng ho hen và nóng lạnh, là do thấp nhiệt phạm ở bên trong (Tỳ không tiêu hóa, uất lại thành đờm, biến sinh các chứng ho hắng và chóng mặt hoa mắt... Nên dùng Nhân sâm làm quân; Bạch truật, Bạch thược làm tá; Quất bì, Thanh bì để phá trệ khí; Tang bì, Cam thảo, Mộc hương, Tân lang, Ngũ vị làm sứ; Quế chi, Cát cánh làm dẫn.
  • “Cái không thắng lấn tràn đi”, như Thủy lấn Mộc đi càn mà trở khinh nhờn Thổ. Cho nên từ Thận lấn vào Tâm thời thành mồ hôi; vào Can thời thành nước mắt; vào Vị thời thành nước dãi; vào Phế thời thành đờm, thành ho, thành nước mũi, thành nhảy mũi, sổ mũi, v.v... Do Thận lại tự lấn vào Thận thời thành chứng đi tiểu nhiều; chứng sợ lạnh nên dùng Can khương làm quân; Bạch truật, Phụ tử, Nhục quế làm thần; Phục linh, Trư linh, Trạch tả làm sứ.
  • Có thuyết nói: Hạ nguyên thổ thịnh khắc thủy, làm cho ba mạch Đốc, Xung, Nhâm quá thịnh, hỏa vượng nung nấu đến nỗi thủy sôi lên mà phạm vào Tỳ, Phế, cho nên đờm dãi mới trào ra đắng miệng; nếu dẫn trở xuống sẽ thành chứng có mồ hôi; và lạnh ở bộ phận sinh dục; chân đi không vững; xương sống và eo lưng, dưới chân có chỗ đau nhức âm ỉ... Hoặc Thủy dựa theo cái thế của Mộc dồn lên thành chứng mắt rít khó mở, làm mắt có ghèn và nước mắt lạnh... Đó đều là do Phế kim hư và ít có sự úy kỵ mà gây nên.
  • Tỳ Vị mà đến nỗi bất túc, đều là huyết bệnh, cho nên chín khiếu không thông; các dương khí đều phát nguyên từ trong âm huyết bị hỏa tà thời m thịnh sẽ lấn lên Dương, do đó Dương đạo không lưu hành, không còn cái khí sinh phát thăng giáng nữa.
  • Dương khí là một loại dẫn tới các khiếu, còn m khí thì phụ vào hình chất. Như m khí phụ vào đất, Dương khí bốc lên trời, thời phận nào yên phận nấy. Giờ trong một bài thuốc đặt ra, có đủ các vị tân, cam, ôn... không chuyên dùng một loại nào, lại có cả các vị cam, khổ, đại hàn... cũng không phải chuyên dùng một loại nào... đem chế bằng hai thứ rượu và lửa nóng làm sứ, để dẫn các vị thuốc khổ hàn lên tới đỉnh đầu rồi lại quay trở xuống dưới Can Thận... Đó tức là do cái lẽ “thăng, giáng, phù, trầm”, từ Ngẫu mà Cơ, lại từ Cơ trở về Ngẫu (Dương là Cơ (lẻ), m là Ngẫu (chẵn); tả âm hỏa dùng các thứ phong dược; thăng đề dương khí để giúp ích cái công dụng của Can Thận. Đó là làm cho Dương khí sinh phát ra ở trong âm phận. Cuối cùng các vị tân, cam, ôn để tiếp những vị “thăng” kia, cho được phát tán ra ở Dương phận để đi tới chín khiếu).
Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia.
Xem thêm: