YTTL: Đạo lưu dư vận 8

Đạo lưu dư vận (bàn thêm về y lý) biện luận và bổ sung những điểm y lý tồn tại mà các sách xưa chưa nói rõ hoặc chưa bàn đến.

ĐẠO LƯU DƯ VẬN
Phần 8
1. Dùng khí dược và huyết dược
Về dùng thuốc, khí dược và huyết dược nương nhau mới có thể thành công.
  • Phương Thư nói: Khí dược có công năng sinh huyết. Đó là theo lẽ âm dương mà nói; Vì dương có sinh ra thì âm mới lớn mạnh, chứ không phải bảo là dùng tất cả các loại khí dược đều có thể sinh ra huyết được đâu.
  • Như chứng huyết thoát, chủ trương dùng huyết dược mà lại dùng Độc sâm thang, hình như cho rằng khí dược có khả năng sinh ra huyết. Nhưng xét kỹ thì khi băng huyết mà thần sắc vẫn tươi tốt thì không dùng được Phụ tử, vì nó là loại thuốc cứu thoát hồi dương, mà chỉ dùng Độc Sâm thang vì Nhân sâm tuy là khí dược, nhưng cái chất nhuận trạch của nó rất đậm đà, nên mới có thể bổ dương kiêm cả bổ âm. Vả lại nhân vì huyết thoát mà vong âm, thì các vị Truật khô ráo, Phụ mãnh liệt không thể dùng được trong khi cần phải tĩnh dưỡng.
  • Cho nên dùng Nhân sâm mới được cả hai mặt. Như bài Bổ huyết thang có Hoàng kỳ 1 lạng, Đương quy 2 đồng cân, nếu cho rằng chuyên dùng khí dược mới có công năng sinh huyết, thì sao không mượn Nhân sâm để bổ dương ích âm, dùng Bạch truật để bổ vị sinh huyết, mà lại chỉ dùng một vị Hoàng kỳ là thuốc cần thiết để bổ Vệ khí, lúc nào nó cũng có chất mềm nhuyễn như bông, có thể sinh huyết và tả âm hỏa.
  • Vả lại, bài Bổ huyết là để chữa chứng lao thương, huyết hư phát sốt, vì Hoàng kỳ bổ vệ khí mà kiêm sinh huyết, cho nên có thể vào một đội với các vị huyết dược.
  • Một đường vì trung khí thoát ra mà dùng Sâm; một đường vì vệ khí hư mà dùng Kỳ, lấy chứng theo phương, dùng thuốc chữa khí nhưng vẫn chiếu cố đến huyết.
  • Cho nên bảo rằng bổ dương sinh âm cũng được mà bảo rằng bổ huyết ích khí cũng được. Cốt sao cho khí huyết nương nhau mới có thể thành công. Đó là cách lập phương của cổ nhân, thần diệu vô cùng, trong dương có âm trong âm có dương, đâu có thể một mực cho rằng khí dược là có công năng sinh huyết mà không tìm ra nguyên nhân, không biết nguyên chủ vào đâu mà dùng bừa bãi được hay sao?
2.Chứng trạng hỏa hư, thủy suy
Về chứng trạng hỏa hư, thủy suy thấy hơi giống nhau, phép chữa dùng lục vị bát vị cần phải phân biệt.
  • Xét hình thể, biện chứng trạng, phân chia phán đoán không sai.
  • Nội kinh nói: âm dương cùng chứa ở một nơi, Thủy hỏa cùng sử dụng lẫn nhau. Cho nên trong thủy bổ hỏa thì sáng mãi không tắt. Trong hỏa bổ thủy thì nguồn chảy mãi không hết.
  • Trọng Cảnh là bậc hiền triết đã nhìn xa thấy rộng mà lập ra bài Bát vị là phương thuốc thông thường trong thủy bổ hỏa, trong hỏa bổ thủy. Phải thấy mạch hai bộ Xích đều Nhược, thủy hỏa đều suy, và thấy chứng tinh thần khí huyết đều có bệnh thì mới đối chứng dùng phương thuốc này.
  • Nếu hỏa hư thủy chưa suy, hoặc thủy suy hỏa thịnh thì trong bài Bát vị, vị thuốc có thêm bớt, cách chữa có phân biệt, lại có thể dùng lẫn lộn được sao?
  • Phàm chứng hỏa hư thủy thịnh, hoặc chứng thủy hư hỏa bốc cũng đều thấy các chứng: hai gò má hồng, mắt đỏ, họng khô, hay đau, lưỡi có rêu, môi nứt nẻ, suyễn thở xốc lên và ho, phiền khát bốc nóng. Người không xét kỹ: hoặc cho uống Bát vị, hoặc cho uống Lục vị, giả tỉ có hiệu nghiệm cũng không biết rằng đã trúng vào mặt thủy hay mặt hỏa; hoặc không thấy hiệu quả cũng lại hoang mang, không biết đã thất sách về thủy hay về hỏa. Vì trong phương bổ hỏa có thể tạm bổ thủy mà trong phương bổ thủy thì tạm có thể bổ được hỏa.
  • Phương thư nói: Ngày thường không biết tiết chế tình dục, đến nỗi Mệnh môn hỏa suy, trong Thận chân âm thiên thịnh, Long hỏa không có chỗ nương thân mà vượt lên thượng tiêu, dùng bài Bát vị để bổ hỏa và ôn thận thì Long hỏa tự khắc trở về.
  • Lại nói: vì lao thương mà tân dịch suy kiệt, đến nỗi chân âm hao tổn, hỏa không có thủy ức chế, tướng hỏa bốc lên mà đốt nóng da thịt, dùng bài Lục vị bổ thủy để đủ sức phối hợp với hỏa thì hỏa tự nhiên giáng xuống.
  • Một bài lấy ích hỏa làm căn bản; một bài lấy tráng thủy làm chủ yếu. Như thế là có hai đường lối.
  • Phàm hư hỏa mà bốc nóng là do Long hỏa của Mệnh môn sợ khí âm hàn ở Thận mà bốc lên, cho nên dùng Quế, Phụ theo tính của nó mà làm ấm cái huyệt của nó, khiến cho Long hỏa trở về chỗ cũ.
  • Phàm thủy suy mà hỏa bốc lên, tức là cái huyệt của Tướng hỏa, tượng trưng bằng cái khuyên trắng ở thận bên phải, với huyệt của Chân thủy, tượng trưng bằng cái khuyên đen ở thận bên trái lúc nào cũng phải như cái cân thăng bằng.
  • Nếu bên nặng bên nhẹ như do thủy bất túc thì thấy ngay hỏa hữu dư, cho nên dùng một đội âm dược loại Thục địa, Sơn thù bổ riêng cho thủy để có đủ sức phối hợp với hỏa, thì thủy hỏa thăng bằng nhau mà nhiệt tự nhiên hết. Trái lại, thủy hư mà còn bổ hỏa, tức là giúp thêm sức nóng cho hỏa để làm hại thủy thêm nữa. Hoặc là hỏa hư mà còn bổ thủy thì khí âm càng mạnh thêm.
  • Tôi có một bí pháp tâm đắc: Hễ xét thấy mạch Xích bên phải yếu hơn mạch Xích bên trái là Chân dương hư, Mệnh môn hỏa suy. Còn mạch Xích bên trái không bằng mạch Xích bên phải là Chân thủy suy, tướng hỏa bốc lên. Nhưng mạch là làn sóng của khí huyết, sợ có khi sai lầm, nên cần phải quan sát hình thể nữa.
  • Tuy chứng có nhiều manh mối, như hỏa hư thì tất nhiên hình thể gầy gò, mắt mặt bạc nhược, hoặc béo bệu trắng bủng. Còn thủy suy thì tất nhiên hình thể đen gầy, hoặc hai gò má và mép đỏ hồng.
  • Sau nữa lại lấy chứng trạng làm bằng:​
    • Tuy cùng là chứng bốc nóng nhưng chỉ thấy khát mà không hay uống nước là chứng vô hỏa. Khát mà hay uống nước là chứng vô thủy.
    • Trên nóng dưới lạnh là chứng vô hỏa.
    • Ngoài nóng trong buồn bực vật vã là chứng vô thủy.
    • Đại tiện thường lỏng là trong vô hỏa.
    • Đại tiện thường táo là trong vô thủy.
    • Bệnh vô thủy vô hỏa khác nhau, thì Thục, Thù với Quế, Phụ dùng chữa cũng khác nhau như nước với lửa.
Đó là những điều hiểu biết ở trong lòng tôi, xin đem công bố để làm sáng tỏ thêm cái đức tính tốt của Trọng Cảnh để lại cho muôn đời.
3. Nhiệt làm hại khí, nhiệt làm hại huyết
  • Nội kinh nói: Dương tà hóa nhiệt, nhiệt thì hại khí. Cho nên chữa cảm nắng đều dùng thuốc bổ khí. Đó là mùa hè hỏa vượng, hỏa khắc kim nên phải bảo vệ khí, chữa bằng cách thanh thử, cho uống bài Sinh mạch ẩm làm cho khí lực tăng lên, như thế đã rõ là nhiệt làm hại khí.
  • Nội kinh nói: Nhiệt thắng thì âm tất có bệnh, cho nên chữa nhiệt phải dùng huyết dược. Đó là nhiệt hay làm cho huyết trào lên, chạy càn, không chịu về kinh. Đan Khê dùng bài Tứ vật gia thêm Tri mẫu, Hoàng bá, Huyền sâm làm phạt hỏa để dưỡng âm, khiến cho âm được yên tĩnh mà huyết sinh ra. Như thế đúng là nhiệt làm hại huyết. Ôi! Ý nghĩa của Nội kinh! Lật đi lật lại người học khó mà tránh khỏi nhiều nẻo lầm lẫn. Sao Nội kinh không nói: Nhiệt thì khí huyết đều bị hại. Nếu nói nhiệt làm hại huyết rồi nghiêng lệch dùng khí dược để chữa thì cái nguy cơ diệt dương sẽ đến ngay.
  • Không phải thế. Cảnh Nhạc nói: “Không phải sách của Thánh hiền thì không nên đọc; không phải lời nói của Thánh hiền thì không nên theo”. Nhà Y có Nội kinh cũng như nhà Nho có Ngũ kinh. Đó là các bậc thần thánh như Hoàng Đế, Kỳ Bá lập ra phép tắc để truyền dạy về sau thì một li cũng không dám trái. Nhưng đọc sách cần phải hiểu rõ nghĩa lý của sách. Phàm chứng nhiệt làm hại khí là do bạo nhiệt ở ngoài đưa đến. Như Nội kinh nói: “Dương tà hóa nhiệt” thì chữ “tà” đó không phải là chỉ vào tà ở ngoài đem lại đó sao? Vì Phế chủ lông da thì không riêng gì thử tà mà các tà khí lục dâm phạm vào thân thể khi mới cảm vào da lông tất phế chịu hại trước. Cho nên thấy có chứng ho, hoặc sợ lạnh, phát sốt, thở ngắn hơi, mệt lả. Nhiệt thương huyết là chứng lâu ngày làm tổn thương ở trong, như Nội kinh nói: Nhiệt thắng thì âm nhất định bị bệnh. Vậy cái ý nghĩa của chữ “thắng” chẳng phải là sự gian khổ chiến đấu lâu ngày rồi sau mới thắng được đó sao?
  • Vì Tâm có tác dụng thống huyết và tàng thần, nhiệt có thể làm cho huyết sôi lên, huyết tán thì tinh thần mê man, nên bề ngoài thấy con mắt như say rượu, như ngây dại hoặc nói sảng.
  • Vả lại Nội kinh nói: Thình lình bị bệnh không phải là âm chứng, bệnh lâu ngày không phải là dương chứng. Như nói: Nhiệt thời hại khí, chắc hẳn không phải là âm chứng. Đó là bạo nhiệt; nhiệt thời hại huyết, chắc hẳn không phải là dương chứng. Đó là cửu nhiệt (nóng lâu ngày).
  • Nội Kinh lại nói: Nhiệt lâu hại âm, càng nhiệt càng hại, càng hại càng nhiệt. Như thế càng hiểu rõ không chỉ có một mình thử tà; mà tất cả các loại nhiệt mới bắt đầu đều làm hại khí, cái nhiệt dây dưa lâu ngày đều làm hại huyết. Cho nên sự khát trong bệnh nhiệt có chia ra: khát uống nước nóng và khát uống nước lạnh. Còn khác nhau ở chỗ uống nhấp giọng và uống nhiều. Y lý rất mênh mông, cần phải thấy rộng ngoài lý lẽ mới phân tích rõ được từng điều, từng mối. Tự nhiên có thể thông suốt đến nơi đến chốn.
  • Tôi tự đặt ra câu chủ yếu như sau: Bạo nhiệt thì hại dương; cửu nhiệt thì hại âm. Các phép nhuận trạch điều hòa nên thuộc kỹ. Biết được như thế là hiểu biết Y đạo vậy.
Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia.