YTTL: Huyền tẫn phát vi 7

Huyền tẫn phát vi (nói rõ về âm dương thủy hỏa), nói về tiên thiên thủy hỏa mệnh môn, cơ năng sinh lý và bệnh lý của chân thủy, chân hỏa cùng phép chữa, hầu hết vận dụng Lục Bát vị.

HUYỀN TẪN PHÁT VI
Phần 7
1. Tiên thiên chân thủy: Mạch, hình chứng và trị liệu đối với sự hư thực của tiên thiên chân thủy.
  • Chân thủy, chân âm (tức huyệt đen bên tả, là thủy vô hình)
a/. Thực chứng
Mạch: Tả xích hữu lực hơn hữu xích
Hình: Béo trắng, nê trệ
Chứng: Tà thủy tràn ngập ra kinh lạc làm ra chứng sưng đau, tiết tả, tê dại, đờm lỵ, sang độc. Đó là thủy thịnh hỏa suy, các chứng nổi lên, nên phân ra trên dưới mà tiêu đi
b/. Hư chứng
Mạch: Sáu bộ đều phù hoặc hồng đại vô lực, tả xích hư nhược vô lực, hoặc hư mà tế sác vô lực, không bằng bộ hữu xích hơi mạnh
Hình: Béo bệu, sắc trắng bủng, mặt như bôi son hoặc sắc má hơi hồng, ngoại tựa như có thừa, hoặc tối đen mà gày gò, da dẻ khô khan, thân thể liệt yếu, tinh khô huyết kiệt, da như bong vảy, môi răng khô ráo, râu tóc ngắn vàng, mắt nhiều phần trắng, tính nóng vội, hay cáu gắt, uống nước luôn, tiểu tiện đi luôn, đại tiện hay táo
Chứng: Sốt cơn về chiều, phần âm nóng, nóng âm ỉ trong xương, hoặc phần âm nóng hầm hập, ngũ tâm phiền nhiệt, thượng tiêu nhiều chứng nhiệt, thủy suy không lấy gì chế được hỏa, cho nên hỏa đi lên
  • Kinh nói: “Người dễ cảm sốt thì chân âm ắt hao”. Lại nói: “âm hư phát sốt vì âm hư không chế hỏa”. Phiền táo, phiền khát, đầu nặng, đầu đau, đầu mắt choáng váng, mắt hoa, hai má hồng, nơi Giáp xa sưng phù, khí nghịch xông lên.
  • Mửa khan, họng khô, cổ đau hoặc trong họng như có hạt gì không khạc ra được, nuốt cũng không xuống, trong ngực bồn chồn, sưng trước ngực và eo lưng đau, hư phù tiết tả, ăn uống không tiêu, ho ra nhiều đờm dãi, bọt trắng, miệng khô, lưỡi có rêu, đổ máu mũi, di tinh, nước tiểu vàng, gắt, ngắn, đỏ; nặng lắm mà thành lâm trọc, thích ăn đồ nóng, ưa ấm ghét lạnh, nhiều mồ hôi, đàn bà kinh bế, huyết ít, hễ thủy suy thì hỏa thịnh mà các chứng nổi lên
c/. Trị liệu
  • Phần âm của tiên thiên hư thì bổ thận thủy, dùng những loại thuốc Địa hoàng, Sơn thù, Mạch môn, Ngũ vị,nhất thiết phải kiêng thuốc thấm lợi vì chân thủy suy thì tướng hỏa bốc bậy lên
  • Kinh nói: “Thủy không đủ thì nhân đó mà thấy hỏa có thừa”. Lại nói: “âm hư thì dương lấn sang”. Lại nói: “Dùng thuốc hàn lương chữa mà không làm mát được là tại vì không có thủy”. (Đó là lấy thuốc hàn để chữa bệnh nhiệt mà nhiệt không lui). Lại nói: “Uống các vị thuốc hàn mà cứ nhiệt thì phải trách ở phần âm”. (Đây là lấy thuốc hàn chữa bệnh nhiệt mà nhiệt không khỏi, không phải là hỏa có thừa mà là âm không đủ, âm không đủ thì hỏa găng thịnh nên trách ở âm, chỉ bổ âm thì dương tự lui cho nên bảo rằng phải tìm xem thuộc về loại bệnh nào)
  • Phương thư nói: “âm hư không có thể thu liễm được dương, nên dưỡng âm để làm cho dương lui”. (Đại để chứng thủy suy hỏa động đều do say đắm sắc dục làm hao tổn chân âm, dương không phụ thuộc vào đâu, vì thế mà bốc vượt lên trán). Ấy là ý nghĩa hỏa không kiềm giữ thì phát lên, lâu thì dương lẻ loi không thể vượng được một mình, hỏa không gốc thì không thể cháy sáng được lâu
  • Cho nên bảo rằng tráng hỏa làm hao mất khí. Khí hư thì dương lấn lên, phải điều bổ mạnh để ngăn ngừa cái thế trống không bốc lên, cho nên nói âm hư quá thì nên bổ âm để sánh kịp với dương, khiến cho âm tha hóa theo dương. Nên uống bài Lục vị hoàn làm mạnh phần thủy để trấn áp phần hỏa (Hỏa có thừa thì thủy không đủ, không dám khử hỏa chút nào, chỉ bổ thủy để sánh với hỏa, nên bảo rằng tư âm giáng hỏa, khiến cho thủy có sức, thì hỏa không thể đi càn bậy, đó tức là bổ thủy mà hỏa tự rút xuống)
  • Nếu trong hư ghét thực, thì gia Tri mẫu, Hoàng bá đem sao để tạm ức chế sức thiêu đốt mạnh của hỏa, nếu thủy hư quá thì gia Mạch môn, Ngũ vị để bồi bồ nguồn thủy, gia Ngưu tất để thu liễm hỏa bốc lại, nếu kèm cả chứng can hỏa cháy tợn thì gia vị Bạch thược, Sài hồ để dẹp nó.
2. Tiên thiên chân hỏa: Mạch, hình, chứng, trị liệu đối với sự hư thục của tiên thiên chân hỏa
  • Chân hỏa, chân dương (tức huyệt trắng bên hữu, là hỏa vô hình).
a/. Thực:
Mạch : Hai bộ xích quân bình, sáu bộ có thần.
Hình : Xương thịt cân đối, gân xương cứng cáp, tiếng nói du dương, nhan sắc đen sáng.
Chứng : Miệng khô hoặc khát, cổ đau, gân xương cứng cáp, tiếng nói du dương của mệnh môn là căn bản của sinh mệnh của con người, hỏa đã đầy đủ thì âm thăng bằng dương kín đáo, tinh thần mới yên ổn, thì bệnh còn vào đâu được, không cần phải dùng thuốc.
b/. Hư:
Mạch : 6 mạch vi nhược, hữu xích vô lực, hoặc trì nhuyễn hoặc trầm tế mà muốn tuyệt, không bằng mạch tả xích hơi mạnh hơn.
Hình : Thần khí kém, sắc da đen sạm như khói hoặc thân thể gày còm, trắng bệch, hoặc xanh bợt, tay chân rã rời, tóc râu ngắn vàng, da nhăn nheo lông rụng, thần khí trong con người khô khan, răng khô, lung lay, cử động chậm chạp, hơi thở đoản, tiếng nói khẽ nhỏ, không chịu được gió lạnh, trong bụng thì khiếp sợ đồ sống lạnh, dễ phát đầy, dễ phát tả, hoặc cứ sáng sớm là đi tả, vậy mà còn ham mê sắc dục, chân hỏa hư, can hỏa vượng, nguyên cớ vì can chủ việc sơ tiết cho nên thế.
Chứng : Hầm hập nóng lâu, rất sợ gió lạnh. Kinh nói: “Dễ cảm hàn thì chân dương rất hư”, từ đầu gối trở xuống lạnh hoặc đau nhức, gân cốt không có sức, vùng đan điền không có ấm, ăn không tiêu hóa, hoặc ăn được mà không đói, ỉa chảy không điều độ, mộng di hoạt tinh, choáng váng tự đổ mồ hôi, ngang lưng đau, tai điếc, tiểu tiện bí sáp, nói chung thượng bán thân nhiều chứng giả nhiệt, hạ bán thân nhiều chứng chân hàn, khát mà không thể uống nước được, hoặc không khát, đều rõ là hỏa suy mà thủy thịnh cho nên các chứng phát ra.
c/. Trị liệu:
  • Phần dương của tiên thiên hư thì bổ mệnh môn, dùng loại Quế, Phụ, vì chân hỏa suy thì tráng hỏa đi bậy, Kinh nói: tráng hỏa tiêu hao khí, khí yếu mà dương cũng rất hư, nếu bổ dương để sinh âm khiến cho âm theo dương mà lớn lên. Lại nói: “Uống thuốc nóng mà không thấy nóng là vì không có hỏa”. (Đây là dùng thuốc nóng để chữa hàn mà hàn không hết vì không có hỏa).
  • Lại nói: “Dùng thuốc nóng mà cứ hàn thì dương kém” (Đây là dùng thuốc nóng để trị bệnh hàn mà hàn không lui là không phải hàn có thừa mà vì dương không đủ, dương khí hư , cho nên bổ phần dương lại, chỉ bổ hỏa ở trong thủy thì âm tự tiêu, cho nên bảo tìm xem thuộc về loại nào, một thủy một hỏa đều tìm ở trong thận), nên dùng Bát vị hoàn thêm nguồn của hỏa để tiêu bớt mây mù trong phần âm (hỏa không đủ vì vậy mà thấy thủy có thừa, cho nên không cần phải tả thủy mà cứ bổ hỏa ở trong thủy).
  • Nếu như mệnh môn hỏa hư, hư hỏa bốc bậy lên là do chân thủy cũng hư, chứng thể hiện trên thực dưới hư, như thượng bán thân thì phiền khát mặt đỏ, hạ bán thân thì ỉa chảy kéo dài, chân lạnh từ đầu gối trở xuống, cũng nên dùng Bát vị hoàn. Hoặc có người hỏi chứng trước là chân thủy suy, lôi hỏa bốc lên, chứng này là chân hỏa hư mà hư hỏa bồng lên, đều là một chứng giả nhiệt mà một đường thì dùng Lục vị hoàn để mạnh thủy ức chế hỏa, một đường lại dùng Bát vị hoàn để bổ hỏa dẫn hỏa, xử phương khác nhau như vậy là tại sao? Xin trả lời: “Đó là phép tìm thủy trong hỏa, tìm hoả trong thủy”.
Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia