YTTL: Nội kinh yếu chỉ 4.1

Phần này nói về cơ chế gây bệnh, phát sinh bệnh tật theo nội kinh:


CƠ CHẾ BỆNH BIẾN ( Phần 1)
Hàn cực độ thì sinh ra nhiệt, nhiệt cực độ lại sinh ra hàn. Hàn khí sinh ra trọc khí, nhiệt khí sinh ra thanh khí. Thanh khí bị hãm ở dưới thì đi ỉa sống phân, trọc khí ngưng đọng ở trên thì sinh đầy trướng. Đó là vì âm dương chính thường hoặc trái thường mà bệnh cũng sinh ra chứng thuận hay chứng nghịch.
  • Vì không mặc áo cẩn thận hóng gió mà sinh ra nóng lạnh. (Vì ở trần cảm phải phong tà, phong khí bên ngoài lấn vào, dương khí bên trong chống lại, phong khí và dương khí kích bác nhau nên sinh ra nóng lạnh).
  • Bởi thế mùa xuân cảm phải phong, tà khí ngưng đọng liên miên sẽ sinh ra đi tháo dạ. (Phong khí thông với can khí, mùa xuân can mộc vượng, mộc thắng tỳ thổ, nên sinh ra đi tháo dạ).Mùa hạ cảm phải thử khí, mùa thu sẽ sinh ra sốt rét. (Mùa hạ đã nóng dữ, khí dương mùa thu lại tiếp đến, dương khí và nhiệt khí công nhau sẽ sinh ra chứng sốt rét).
  • Mùa thu cảm phải thấp khí, mùa đông sẽ sinh ho. (Thấp khí mùa thu đã thắng, hàn thủy mùa đông lại sinh, thủy đến lấn phế cho nên sinh bệnh ho rược lên).
  • Phát sinh ra bệnh Nuy-Quyết. (Thấp khí công ở trong thì sinh ho rược lên, tán ra ngoài thì làm cho gân mạch mềm nhũn).
  • Mùa đông cảm phải khí hàn, mùa xuân sẽ sinh ra bệnh ôn. (Khí lạnh của mùa đông ngưng đọng, dương khí của mùa xuân phát sinh. Hàn khí không giải được, dương khí mắc mứu ở trong, hàn khí và dương khí chống nhau mà sinh ra bệnh ôn).
Khí của bốn mùa thay đổi làm tổn thương ngũ tạng. (Lạnh, nắng, ấm, mát thay đổi lẫn nhau, lúc hơn lúc kém mà khí của bốn mùa thay đổi lẫn nhau làm tổn thương đến sự điều hòa của ngũ tạng).
  • Khí mùa xuân gây nên bệnh ở đầu. (Vì ứng với can).
  • Khí mùa hè gây nên bệnh ở tạng. (Vì ứng với tâm).
  • Khí mùa thu gây nên bệnh ở vai, lưng. (Vì ứng với phế).
  • Khí mùa đông gây nên bệnh ở tay chân. (Tay chân khí kém, độc của hàn tà hay làm tổn thương, tùy theo chỗ hàn tà xâm lấn mà làm bệnh ở đó).
Tinh là gốc của nhân thể, cho nên tàng trữ được tinh thì sang xuân không sinh ra bệnh ôn. (Mùa đông dương khí phục tàng, dương khí không động và bốc lên, cho nên mùa xuân không sinh ra bệnh ôn)
  • Âm thắng thì dương bệnh, dương thắng thì âm bệnh. (Phần thắng thì không bệnh, phần không thắng thì sinh bệnh).
  • Dương thắng thì nhiệt, âm thắng thì hàn, hàn cực độ thì sinh nhiệt, nhiệt cực độ thì sinh hàn. (Vật cực tắc phản, cũng như hỏa mạnh quá thì chính khí suy, hỏa bình thường thì chính khí thịnh).
  • Hàn tổn thương hình, nhiệt tổn thương khí. (Hàn thì vệ khí không thông lợi cho nên tổn thương hình thể, nhiệt thì vinh khí tiêu hao ở trong cho nên tổn thương khí).
  • Khí bị tổn thương sinh đau nhức, hình bị tổn thương sinh phù nề. (Khí tổn thương thì nhiệt kết ở phần thịt cho nên đau nhức, hình tổn thương thì hàn khí thúc ngoài bì phu cho nên phù nề)
Vì vậy, trước đau nhức rồi sau phù nề là khí làm tổn thương hình, trước phù nề rồi sau đau nhức là hình làm tổn thương khí. (Trước phát ra chứng ở khí mà sau sinh ra chứng ở hình cho nên nói khí làm tổn thương hình; trước phát sinh ra chứng ở hình mà sau mới sinh ra bệnh ở khí cho nên nói hình tổn thương khí).
  • Phong thắng thì chuyển động. (Phong khí thắng thì mọi vật đều dao động cho nên nói chuyển động).
  • Nhiệt thắng thì sinh sưng thũng. (Nhiệt khí thắng thì dương khí uất ở trong, sưng thũng phát ra dữ dội, nặng quá thì vinh khí nghịch lên ở trong thịt, tụ lại mà thành ra nhọt mủ).
  • Táo thắng thì ráo. (Táo khí thắng thì tân dịch khô kiệt cho nên da dẻ khô ráo).
  • Hàn thắng thì sinh phù. (Hàn thắng thì âm khí mới bắt đầu bế lại ở trong lỗ chân lông, dương khí công ở trong cho nên sinh ra phù).
  • Thấp thắng thì sinh ra ỉa chảy. (Thấp khí thắng công phạt tỳ vị ở bên trong. Tỳ vị bị thấp thì cơm nước lẫn lộn, tống xuống đại trường sinh ra ỉa chảy).
  • Cho nên mừng quá giận quá làm tổn thương khí, rét quá nóng quá làm tổn thương hình (Mừng giận đều sản sinh từ khí cho nên nói là mừng giận tổn thương khí, rét nắng quá đều tổn thương hình thể cho nên nói rét nắng làm tổn thương hình).
  • Đột nhiên giận dữ tổn thương âm khí, đột nhiên mừng quá tổn thương dương khí. (Giận thì khí bốc lên, mừng thì khí giáng xuống. Cho nên đột nhiên giận dữ thì khí bốc lên mà tổn dương khí. Đột nhiên mừng quá thì khí giáng xuống làm tổn thương âm khí ).
  • Quyết khí đi ngược lên đầy kinh mạch thì thần khí lìa khỏi hình thể (Quyết là khí nghịch lên, khí nghịch lên đầy ở kinh lạc thì thần khí bốc ra, lìa khỏi hình thể).
  • Mừng giận quá độ, rét nắng quá độ thì sinh mệnh không vững bền. (Sách Linh Khu nói: “Người biết dưỡng sinh thì phải thuận theo bốn mùa mà thích ứng với khí hậu lạnh nắng, điều hòa sự mừng giận mà ăn ở yên tĩnh. Nếu mừng giận bất thường hoặc nóng rét quá độ thì chính khí làm sao mà bền vững được).
  • Cho nên cảm phải tà khí của thiên nhiên thì làm hại ngũ tạng của nhân thể. (Tám thứ gió vẫn thường có phát ra tà khí, tà khí của gió xúc phạm vào ngũ tạng mà làm ra bệnh, cho nên cảm phải tà khí của thiên nhiên thì hại ngũ tạng của nhân thể).
  • Cảm phải sự nóng lạnh của đồ ăn thì hại đến lục phủ (Nhiệt khí làm tổn thương vị và bàng quang, hàn khí làm tổn thương đại tiểu trường và đởm khí).
  • Cảm phải thấp khí ở dưới đất làm tổn thương da thịt gân mạch. (Thấp khí thắng thì mạch ở vinh vệ không vận hành được cho nên cảm phải thấp khí thì hại da thịt gân mạch).
  • Tinh thần không tăng tiến thì ý chí bất trị, cho nên bệnh không thể khỏi được. (Sự hoạt động trái thường làm hao tán chân khí cho nên như thế).
  • Tinh hoại, thần mất, vinh vệ không thể thu phục được vì sao? Vì ham muốn vô cùng mà lo nghĩ liên miên thì tinh khí rã rời, bại hoại, vinh huyết ngưng trệ, vệ khí tiêu tan, cho nên thần mất mà bệnh không khỏi được. (Tinh thần là nguồn gốc của sự sống, vinh vệ là chủ khí, chủ khí không giúp đỡ, thần không yên ở trong thì bệnh không thể khỏi được).
Tình hình khí của 12 kinh bị tuyệt là như thế nào?
  • Khi khí của kinh mạch Thái dương bị tuyệt thì hai mắt nhìn ngược lên, lưng uốn ván, tay chân co giật, sắc mặt trắng bệch, tuyệt hãn chảy ra thì chết. (Đây là trước tiên nói về sự tuyệt khí của kinh Thái dương. Kinh mạch túc Thái dương bắt đầu ở mắt, lên trán, giao nhau ở đỉnh đầu, liên lạc vào não, quặt ra xuống sau gáy, men theo trong bắp vai, dọc theo cột sống, tới trong eo lưng. Một chi khác đi xuống chân đến mé ngoài đầu ngón chân út. Kinh mạch thủ Thái dương bắt đầu từ phía ngoài chót ngón tay út, men theo cánh tay lên vai, vào hõm vai; một chi khác từ hõm vai, men theo cổ lên đến đuôi mắt. Cho nên khí của kinh mạch Thái dương bị tuyệt thì hai mắt nhìn ngược lên không chuyển động, mình uốn ván, co quắp, bệnh gấp thì co lại, hoãn thì duỗi ra, sắc đen thì biến thành trắng, vì kinh mạch túc Thái dương thuộc thủy, chủ về sắc đen, kinh mạch thủ Thái dương thuộc hỏa, chủ về sắc đỏ, mà hai sắc đen đỏ không thấy chỉ thấy sắc trắng. Tuyệt hãn tức là mồ hôi tuôn ra như hạt châu mà không cầm lại được, có hiện tượng tuyệt hãn là chứng chết).
  • Khí của kinh mạch Thiếu dương bị tuyệt thì tai điếc, các đốt xương đều rã rời, hai mắt trực thị, tròng đen không chuyển động nữa, một ngày rưỡi sẽ chết, trước khi chết thì sắc mặt xanh trắng bệch. (Đây là nói về khi kinh khí của kinh mạch Thiếu dương bị tuyệt. Mạch kinh túc Thiếu dương bắt đầu ở đuôi mắt, lên góc đầu, xuống sau tai. Một chi khác men sau tai, vào trong tai, ra trước tai, cho nên khi khí tuyệt thì tai điếc. Kinh Thiếu dương chủ gân, cho nên khi khí tuyệt thì các đốt xương đều rã rời, mắt trực thị và tròng đen không chuyển động được và đến lúc tròng đen không chuyển động được thì chỉ còn một ngày rưỡi nữa là chết và khi chết mặt tất nhiên xanh trắng bệch vì sắc xanh thuộc mộc, sắc trắng thuộc kim, hai sắc ấy tương khắc với nhau).
  • Khí của kinh mạch Dương minh bị tuyệt thì miệng mắt méo xếch, máy giật, hay sợ hãi nói bậy, sắc vàng khắp trên dưới (kinh thủ, kinh túc), khí của kinh này mạnh quá sinh tê dại thì chết. (Đây là nói về khí của kinh mạch Dương minh bị tuyệt. Kinh mạch túc Dương minh bắt đầu từ chỗ trũng trên sống mũi, đi xuống dưới ngoài mũi, đi lên vào hàm răng trên, ra miệng vòng quanh môi, qua Giáp xa, lên trước tai, theo bờ da tóc lên góc trán. Một chi khác từ trước huyệt Nhân nghinh xuống nhân nghinh vòng qua họng, qua hõm vai, xuống chẻn dừng. Kinh mạch thủ Dương minh bắt đầu từ ngón tay trỏ, men theo cánh tay lên vai, rồi lên cùng các kinh khác hội nhau ở xương đòn, lại xuống hõm vai mà liên lạc với phế. Một chi khác từ hõm vai lên cổ, qua má, tới hàm răng dưới, ra mép miệng cùng giao nhau ở Nhân trung lên cạnh mũi; cho nên khí của kinh này tuyệt thì miệng mắt méo xếch, máy giật. Vị mắc bệnh thì sợ người và lửa, nghe tiếng gỗ khua thì giật mình sợ hãi, chửi mắng không kể người thân kẻ sơ, hay sợ mà nói càn, vàng là màu sắc của thổ. Bộ phận trên là kinh mạch thủ Dương minh, bộ phận dưới là kinh mạch túc Dương minh. Kinh khí của mạch này mạnh quá thì mặt, mắt, cổ, cằm, mu chân, cổ tay, ống chân đều rung động, tê dại cấu không biết đau, đó là dấu hiệu khí đã kiệt hết, cho nên nói khí của kinh mạch này tuyệt).
  • Khí của kinh mạch Thái âm tuyệt thì bụng đầy trướng, bế tắc không thở được, hay ợ, hay mửa, mửa thì khí nghịch lên, khí nghịch lên thì mặt đỏ, nếu khí không nghịch lên thì trên dưới không thông, không thông thì mặt đen, lông da khô rộp mà mạch tuyệt. (Đây là nói về khí của kinh Thái âm tuyệt. Kinh mạch túc Thái âm từ trong đùi đến trước đùi, vào bụng, thuộc tỳ, liên lạc với vị, lên chẻn dừng. Kinh mạch thủ Thái âm bắt đầu từ trung tiêu, liên lạc xuống đại trường, quanh lên vị khẩu, lên chẻn dừng, vào phổi, vì đường lạc của nó từ tỳ vào vị, cho nên đầy trướng bế tắc không thở được, sinh ra ợ mửa. Vả lại mửa thì khí nghịch lên, cho nên sắc mặt đỏ. Không mửa thì không nghịch, không nghịch thì ở trên không thông, dưới lại bế tắc mà trên dưới không thông. Tâm khí thiêu đốt bên ngoài cho nên da khô rộp mà mạch tuyệt. Vì mạch túc Thái âm này có một chi từ dạ dày ngang ra, lên chẻn dừng dồn vào tâm).
  • Khí của kinh mạch Thiếu âm bị tuyệt thì mặt đen, răng trơ ra mà đầy cáu bẩn, bụng trướng, trên dưới bế tắc không thông mà khí tuyệt. (Đây là nói về khí của kinh Thiếu âm tuyệt. Khí của kinh này tuyệt thì huyết hết lưu thông, huyết không lưu thông thì lông da khô sém, cho nên sắc mặt đen như sơn mà không đỏ. Khí của kinh mạch này tuyệt thì xương không mềm, xương không mềm thì nhô lên trên, cho nên răng trơ ra mà đầy cáu bẩn. Kinh mạch thủ Thiếu âm bắt đầu từ trong tâm xuống chẻn dừng, liên lạc với tiểu trường. Kinh mạch túc Thiếu âm từ thận suốt lên chẻn dừng, vào phổi cho nên khí của kinh mạch này tuyệt thì đầy trướng, trên dưới bế tắc không thông).
  • Khí của kinh mạch Quyết âm tuyệt thì trong ngực phát nóng, họng khô hay đi đái, lòng buồn bực khó chịu, nặng quá thì thụt lưỡi, thụt dái mà chết. Đó là chứng bại hoại của 12 kinh mạch. (Đây là nói khí của kinh Quyết âm tuyệt; Đường lạc của kinh túc Quyết âm từ ống chân lên hòn dái kết ở ngọc hành. Đường kinh chính của nó vào lông mu, qua bộ phận sinh dục, lên đến bụng dưới, qua dạ dày, lên sau cuống họng, đến hàm và má. Mạch thủ Quyết âm bắt đầu ở ngực đi ra, thuộc tâm bào lạc cho nên mạch này tuyệt thì trong ngực nóng, họng khô, hay mót đi đái, lòng buồn bực khó chịu. Sách Linh khu nói: “Can là nơi hội họp của gân, gân tụ hội ở bộ phận sinh dục, chằng lên cuống lưỡi cho nên nặng thì thụt lưỡi thụt dái mà chết”, như vậy thì 12 kinh mạch đều bại hoại, chết là đúng).
Cơ sở sức khỏe trong con người là nhờ ngũ tạng (Ngũ tạng yên định thì thần vững, thần vững thì thân thể khỏe mạnh, cho nên nói thân thể khỏe mạnh là nhờ ngũ tạng).
  • Đầu là phủ tinh minh, nếu thấy đầu nghẽo không cất dậy mà mắt sâu không tinh quang, đấy là tinh thần sắp suy bại; lưng là phủ của ngực, nếu thấy lưng còng vai so đấy là khí trong ngực sắp bại hoại; eo lưng là phủ của thận, nếu thấy eo lưng cứng đờ khó xoay trở, đấy là thận sắp suy bại; gối là phủ của gân, nếu thấy gối không co duỗi được, mỗi hành động đều phải cúi lom khom là gân sắp bại hoại; xương là phủ của tủy, nếu thấy không thể đứng lâu được là xương sắp bại hoại. (Đều lấy chỗ xuất xứ mà gọi là phủ).
  • Khi có các bệnh tình kể trên, giả như ngũ tạng có thể khôi phục sức khỏe mạnh thời tuy bệnh cũng có thể sống; ngũ tạng không thể khôi phục sức khỏe, bệnh tình không thể cứu vãn thì người cũng chết. (Khỏe mạnh là trung khí cố thủ, đấy là nói cơ sở sức khỏe trong người là nhờ ngũ tạng, mà mất sức khỏe thì chết).
  • Âm khí thịnh thì nằm mộng thấy lội sông cái mà sợ hãi. (m là thủy, cho nên nằm mộng thấy lội sông cái mà sợ hãi).
  • Dương khí thịnh thì nằm mộng thấy lửa cháy to. (Dương là hỏa, cho nên nằm mộng thấy lửa cháy to).
  • Âm dương đều thịnh thì nằm mộng thấy đánh giết nhau, bị thương. (Cũng giống như ý nghĩa âm dương giao tranh).
  • Bộ phận trên thịnh thì nằm mộng thấy bay, bộ phận dưới thịnh thì nằm mộng thấy té ngã. (Khí đi lên thì nằm mộng thấy bay lên, khí giáng xuống thì nằm mộng thấy té ngã).
  • Khi no quá thì nằm mộng thấy đem của cho người (Vì bên trong có thừa), khi đói quá thì nằm mộng thấy người khác đem cho của. (Vì bên trong thiếu).
  • Can khí thịnh thì nằm mộng thấy giận giữ. (Vì tình chí của can là giận dữ).
  • Phế khí thịnh thì nằm mộng thấy khóc. (Vì thanh âm của phế là thương cho nên nằm mộng thấy khóc).
  • Trong bụng có nhiều giun ngắn thì nằm mộng thấy nhiều người hội họp. (Trong bụng có nhiều giun ngắn thì nằm mộng thấy giun).
  • Trong bụng có nhiều giun dài thì nằm mộng thấy đánh nhau và tổn thương. (Có giun dài nhiều thì trong bụng không yên, nằm mộng thấy rối loạn cho nên thấy thế).
Năm chứng thực thì chết, năm chứng hư cũng chết. (Năm chứng thực là ngũ tạng thực, năm chứng hư là ngũ tạng hư).
  • Mạch thịnh, da nóng, bụng trướng, đại tiểu tiện không thông, buồn bực lóa mắt đó là năm chứng thực. (Thực là tà khí thịnh và thực, mạch thịnh là bệnh tâm, da nóng là bệnh phế, bụng trướng là bệnh của tỳ, đại tiểu tiện không thông lợi là bệnh của thận, buồn bực lóa mắt là bệnh của can).
  • Mạch tế, da lạnh, khí kém, đại tiểu tiện tiết lợi, ăn uống không vào đó là năm chứng hư. (Hư là chân khí không đủ, mạch tế là bệnh ở tâm, da lạnh là bệnh ở phế, khí hư là bệnh ở can, đại tiểu tiện tiết lợi là bệnh ở thận, ăn uống không vào là bệnh ở tỳ).
Năm chứng thực, năm chứng hư cũng có khi không chết là tại sao?
  • Như chứng hư mà ăn cháo được, ỉa chảy khỏi được thì sống.
  • Như chứng thực mà mình đổ mồ hôi, đại tiểu tiện thông lợi thì cũng có thể sống, ấy là nói chứng trạng hư thực mà có thể khỏi được. (Ăn cháo được, vị khí điều hòa thì ỉa chảy khỏi dần, vì vị khí mạnh thì khí hư cũng sống. Chứng thực mà ra được mồ hôi, đại tiểu tiện thông lợi thì tự nhiên khỏi).
Cho nên
  • Đi đêm mà suyễn thở là do thận. (Thận chủ sự biến đổi, thận khí hợp với lúc mờ tối, cho nên đi đêm bị suyễn thở là do trong thận ra).
  • Khí tràn lên làm cho phế bị bệnh. (Đi đêm lao thận do đó mà phát suyễn thở, dâm khí tràn lên làm cho phế bị bệnh).
  • Vì té ngã sợ hãi mà suyễn thở là do ở can. (Sợ do can, té ngã thì tổn thương gân máu vì thế mà suyễn thở, cho nên nói do ở can).
  • Can khí tràn lên làm hại tỳ. (Can khí bị khuấy động thì làm hại tỳ thổ).
  • Vì kinh sợ mà suyễn thở là bệnh ở phế. (Kinh sợ thì tâm không có chỗ dựa, thần không yên định, khí bị rối loạn ở trong ngực, cho nên suyễn sinh ra ở phế).
  • Dâm khí tràn lên làm cho tâm bị bệnh. (Kinh sợ thì thần tản đi, cho nên dâm khí động thì làm tổn thương đến tâm).
  • Qua sông bị đắm thuyền hoặc trượt té mà suyễn thở là bệnh do ở thận và xương. (Thấp khí thông với thận, thận chủ về xương, cho nên qua sông bị đắm thuyền mà suyễn thở là do ở thận và xương).
  • Đang lúc ấy người khỏe thì khí lưu thông mà bệnh khỏi, người yếu thì khí ngưng trệ mà sinh bệnh. (Khí có khỏe hay yếu, thần có dũng hay khiếp, cho nên có tình trạng khác nhau).
Cho nên
  • Phép chẩn bệnh phải xét người dũng hay khiếp, tình hình xương thịt da dẻ như thế nào. (Biết rõ được tâm tính, nắm vững được tình hình mới nhận thức được sâu sắc và chẩn đoán được chính xác).
  • Khi ăn uống quá no mồ hôi ra là do ở vị. (Ăn uống quá no mà ra mồ hôi là do ở vị).
  • Khi kinh sợ bị tản tinh mà mồ hôi ra là do ở tâm. (Kinh sợ tản mất tâm tinh, thần khí bốc lên, dương khí nhân đó mà bức bách, cho nên mồ hôi ra là do ở tâm).
  • Mang nặng đi xa mồ hôi ra là do ở thận. (Xương bị nhọc, khí bốc lên, thận lại bị mệt mỏi quá, cho nên mang nặng đi xa mà mồ hôi ra là do ở thận).
  • Khi chạy nhanh, khi sợ hãi mồ hôi ra là do ở can. (Làm việc nặng nhọc động đến gân thì hại đến can khí, cho nên chạy nhanh, sợ hãi mà mồ hôi ra là do ở can).
  • Vận động nhọc mệt mà đổ mồ hôi là do ở tỳ. (Vận động nhọc mệt là động tác ra sức nhiều quá, không phải chạy nhanh hay đi xa, động tác dùng sức thì tinh ba của thủy cốc phân bố khắp nơi, tỳ có chức năng tiêu hóa thủy cốc, cho nên nói mồ hôi ra là do ở tỳ).
  • Khi tà khí xâm lấn vào được đến nhân thể là do nó mạnh hơn mà lấn vào. (Tà khí là nói thứ khí bất chính như phong, hàn, thử, thấp, đói, no, nhọc, mệt…). Gặp ngày giờ bản tạng sở sinh thì bệnh khỏi, gặp ngày giờ bản tạng bị khắc thì bệnh nặng thêm, gặp ngày giờ sinh ra bản tạng thì bệnh dừng, gặp ngày giờ của tạng đó thì bệnh phát.
  • Bệnh ở can thì đau hai bên mạn sườn, đau ran đến bụng dưới, làm cho người ta hay giận. (Can thuộc kinh mạch Quyết âm, từ chân lên quanh bộ phận sinh dục, đến bụng dưới, lại đi lên suốt đến não bộ, xuống chẻn dừng, tỏa ra sườn, cho nên đau hai bên hạ sườn và đau ran đến bụng dưới, vì can khí thực cho nên hay giận).
  • Can hư thì lóa mắt nhìn không thấy rõ, tai nghe không được gì, hay sợ, hình như có người sắp đến bắt mình. (Can thuộc kinh mạch Quyết âm, từ sườn lên cuống họng, vào trán, liên lạc tới mắt. Chi mạch của kinh mạch Thiếu dương đởm từ sau tai vào trong tai, chạy ra phía trước tai đến sau đuôi mắt, cho nên sinh ra bệnh như nói trên).
  • Bệnh ở tâm thì trong ngực đau, sườn đầy tức, hạ sườn đau, đau ngực lưng và bả vai, đau mé trong hai cánh tay. (Chi mạch của kinh mạch thủ Thiếu âm tâm từ ngực ra sườn, chi mạch của kinh mạch thủ Quyết âm tâm bào lạc cũng đi từ ngực ra hạ sườn, cách hố nách ba thốn, đi lên dưới hố nách, xuống qua mé trong bắp tay, đi vào khoảng giữa hai kinh mạch Thái âm và Thiếu âm, vào trong khuỷu tay, xuống qua cẳng tay đi vào khoảng hai lằn gân. Kinh mạch thủ Thiếu âm tâm (đường thẳng) từ tâm hệ lên phổi, đi ra dưới nách, xuống qua phía sau mé trong bắp tay, đi vào sau chỗ kinh mạch Thái âm, Quyết âm xuống khuỷu tay, đi theo phía sau mé trong cẳng tay đến lồi xương trụ (cao cốt) ở sau bàn tay. Kinh mạch thủ Thái dương tiểu trường từ bắp tay đi quanh trong vai, giao nhau ở trên vai, cho nên sinh bệnh như nói trên).
  • Tâm hư thì ngực bụng to, hạ sườn và eo lưng cùng đau ran. (Kinh mạch thủ Quyết âm tâm bào lạc từ trong ngực ra liên thuộc với tâm bào, xuống chẻn dừng, liên lạc với tam tiêu, một chi mạch rẽ từ ngực ra sườn. Kinh mạch thủ Thiếu âm tâm từ tâm hệ xuống chẻn dừng, liên lạc với tiểu trường, cho nên lúc biến động sinh bệnh như nói trên).
  • Bệnh về tỳ thì người nặng nề, hay đói, thịt nhão, chân không nhấc đi được, hay co quắp, dưới chân đau nhức. (Co quắp nói ở đây là bệnh trẻ em, tỳ thuộc thổ mà chủ bắp thịt, cho nên người nặng nề mà bắp thịt nhão. Kinh mạch túc Thái âm tỳ khởi đầu từ ngón chân cái, đi qua mé trong ngón chân cái, lên bên trong mắt cá trong, lên bên trong bụng chân. Kinh mạch túc Thiếu âm thận bắt đầu từ dưới ngón chân út, đi chéo sang lòng bàn chân, lên bên trong bụng chân, lên mé bên trong nhượn (khoeo), cho nên khi mắc bệnh thì chân không nhấc lên được, hay co quắp và dưới chân đau).
  • Tỳ hư thì bụng đầy, sôi bụng, đi ỉa sống phân, ăn không tiêu. (Kinh túc Thái âm tỳ từ mé trước bên trong đùi, vào bụng thuộc tỳ, liên lạc với vị, cho nên sinh bệnh như vậy. Sách Linh khu nói: “Trung khí bất túc thì bụng hay đầy, ruột hay sôi”).
  • Bệnh ở phế thì ho suyễn, khí nghịch, vai lưng đau, đổ mồ hôi. Ở các chỗ xương cùng, ngọc hành, đùi, đầu gối, xương đùi, bụng chân, ống chân và chân đau nhức. (Phế tàng trữ khí, chủ suyễn thở, lúc biến động thì sinh ho, cho nên phế bệnh thì ho suyễn khí nghịch lên. Lưng là phủ của ngực, tiếp giáp với vai, cho nên vai lưng đều đau. Phế nuôi lông da, phong tà thịnh thì tân dịch tiết ra ngoài cho nên đổ mồ hôi. Kinh mạch túc Thiếu âm thận từ dưới chân đi lên, qua bên trong bụng chân, ra mé trong nhượn (khoeo), lên mé sau bên trong đùi, dọc theo xương sống, thuộc thận, liên lạc với bàng quang. Nay phế khí không vận hành thì kinh mạch thận bị tà, cho nên các chỗ xương cùng, ngọc hành, đùi, đầu gối, xương đùi, bụng chân, ống chân và chân đều đau nhức).
  • Phế hư thì khí kém, không thể thở đều được, tai điếc, họng khô. (Phế khí hư ở trên, cho nên không đủ hơi thở để điều hòa được. Lạc mạch của kinh thủ Thái âm phế hội ở trong tai cho nên điếc. Kinh mạch túc Thiếu âm thận từ thận đi lên ngực, qua chẻn dừng vào trong phổi, qua hầu họng lên cuống lưỡi. Nay phế hư thì thận khí không tỏa đủ lên trên cho nên họng khô).
  • Bệnh thận thì bụng to, chân sưng, ho suyễn, mình nặng, nằm ngủ thì ra mồ hôi trộm, sợ gió. (Kinh mạch túc Thiếu âm thận khởi đầu từ chân, lên bụng chân, theo xương mu đi lên hai bên rốn, vào trong bụng mà đi lên phế, cho nên bụng to chân sưng mà ho suyễn. Bệnh ở thận thì xương không có tác dụng cho nên mình nặng. Thận tà công lên phế, tâm khí suy ở trong, tân dịch sinh ra mồ hôi, cho nên nằm ngủ thì ra mồ hôi trộm, chân đã sưng, mồ hôi không hóa được âm, ngưng đọng ở lỗ chân lông, dương thiêu đốt lên thượng tiêu, trong nóng ngoài lạnh, cho nên sợ gió).
  • Thận hư thì trong ngực đau, bụng trên bụng dưới đau, mát lạnh, khí nghịch, trong lòng không vui. (Kinh mạch túc Thiếu âm thận từ phế đi ra liên lạc với tâm, dồn ở trong ngực. Thận khí đã hư, tâm không có sự ức chế, tâm khí bốc lên phế, cho nên đau dồn ở trong ngực. Kinh mạch túc Thái dương từ gáy đi xuống chân, thận hư thì khí của kinh Thái dương không đi mạnh được ở chân, cho nên chân lạnh mà khí nghịch lên. Vì mát lạnh cho nên bụng trên, bụng dưới đau, trí kém thì tinh thần rối loạn cho nên không vui).
KHÍ CỦA NGŨ TẠNG SINH BỆNH RIÊNG BIỆT GỌI LÀ “NGŨ BỆNH” NHƯ SAU:
  • Bệnh ở tâm sinh ra hay “ợ”. (Tâm tượng trưng cho lửa bốc lên, khói theo ngọn lửa mà ra, tâm bệnh không thu nạp được uế khí cho nên phải ợ để tống ra).
  • Bệnh ở phế sinh ra “hay ho”. (Phế tượng trưng cho kim loại, cứng rắn, gõ vào thì có tiếng, tà xâm phạm vào phế cho nên sinh ho).
  • Bệnh ở can sinh ra “hay nói”. (Can tượng trưng cho loài cây có cành, có chi nhánh rẽ ra, lời nói là phát biểu sự uẩn khúc từ trong ra, cho nên bệnh can thì hay nói).
  • Bệnh ở tỳ sinh ra “hay nuốt”. (Tỳ tượng trưng cho hành thổ, có tính chất dung nạp).
  • Bệnh ở thận thì “hay ngáp” và “nhảy mũi”. (Thận tượng trưng cho hành thủy, tính chảy xuống, bốc lên thành mây mù, vì khí uất ở vị cho nên sinh ra hay ngáp vặt, khí Thái dương điều hòa thông lợi mà lại đầy lên tâm, phát ra đằng mũi cho nên sinh ra nhảy mũi).
  • Bệnh ở vị thì khí nghịch thành ra “hay ọe”, “hay sợ”. (Vị là cái bể chứa thủy cốc, thận là cái cửa của vị, hễ cửa không thông lợi thì khí nghịch lên mà bao bọc lấy thủy cốc. Chỉ vì hay bị hàn, hàn khí và cốc khi va chạm nhau cho nên sinh ra nôn ọe. Nhiệt thịnh thì sinh ra sợ là tại sao? Vì vị nhiệt thì thận khí suy cho nên sinh ra sợ).
  • Bệnh ở đại, tiểu trường là “ỉa chảy”, bệnh ở hạ tiêu là chứng “phù thũng” (Đại trường là nơi đùn đẩy, tiểu trường là nơi chứa đựng. Khí ở nơi chứa đựng đã hư, chức năng đùn đẩy mất bình thường cho nên sinh ra ỉa chảy. Hạ tiêu là nơi gạn lọc thủy dịch, khí bị bế tắc không tiết ra được cho nên tràn lên mà sinh phù thũng).
  • Bàng quang không thông lợi thì sinh bệnh lậu, bàng quang không co lại thì sinh bệnh “són đái” hay “đái dầm” .(Bàng quang là phủ chứa tân dịch, nước do đó mà chảy ra, nhưng mạch kinh thủ Thiếu dương tam tiêu thực, làm cho hạ tiêu co lại không thông nên không đi đái được, hư thì hạ tiêu không co lại được cho nên sinh ra són đái).
  • Bệnh ở đởm thì sinh ra “hay giận”. (Đởm là chức năng trung chính, quyết đoán, vô tư, không thiên vị, tính cương quyết cho nên hay giận).
​Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia.