Cây Kinh giới - Cây thuốc vườn nhà

Cây Kinh giới được biết đến là một cây gia vị quen thuộc với người Việt Nam đồng thời cũng là một cây thuốc quý. Hãy cùng thuochay.net khám phá vị thuốc đơn giản và dễ sử dụng này.

CÂY KINH GIỚI

Tên thường gọi: kinh giới, kinh giới rìa, kinh giới trồng, Giả tô, Khương giới, Thử minh, Kinh giới huệ, Kinh giới thán, Nhất niệp kim, Tái sinh đơn, Như thánh tán, Độc hành tán, Cử khanh cố bái tán, Tịnh giới, Hồ kinh giới, Thạch kinh giới, Trân la kinh
Tên khác: Elsholtzia cristata Willd, Herba seu Flos Schizonepetae.
Họ thực vật: Schizonepeta tenuifolia Briq.

1. Mô tả, phân bố:
  • Cây Kinh giới được biết đến là một cây gia vị quen thuộc với người Việt Nam đồng thời cũng là một cây thuốc quý.
  • Kinh giới có thân vuông, mọc thẳng, cao khoảng 30 – 50 cm. Hoa nhỏ, màu tím nhạt, mọc thành bông ở đầu cành. Cây chứa tinh dầu có vị cay, đắng, mùi thơm.
  • Kinh giới mọc ở khu vực đồi núi, đất bỏ hoang, với địa hình nhiều nắng, bờ sông suối hay trong rừng; ở cao độ 0-3.400 m. Có tại Ấn Độ, Campuchia, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Myanma, Nga, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc (ngoại trừ các tỉnh Thanh Hải và Tân Cương), Việt Nam. Nó cũng được du nhập vào châu Âu và Bắc Mỹ. Hiện nay ở Việt Nam, kinh giới được trồng ở nhiều nơi làm rau gia vị, thường được dùng để ăn sống.
​​Lưu ý phân biệt:
  • Ở Trung Quốc, có một số loài khác trong cùng chi Elsholtzia được gọi chung là 香薷 (hương nhu), nhưng không phải là các loài có tên gọi là hương nhu như ở Việt Nam (thuộc chi Ocimum). Trong khi đó, tên gọi 荆芥 (kinh giới) lại được dùng để chỉ các loài thuộc các chi Nepeta và Schizonepeta (Schizonepeta được một số tác giả coi là danh pháp đồng nghĩa của Nepeta).
  • - Ngoài ra, một số loài thuộc chi Chenopodium cũng có tên gọi là kinh giới, bên cạnh các tên gọi như rau muối hay dầu giun. Ví dụ Chenopodium ficifolium gọi là kinh giới trắng.
2. Bộ phận dùng, thu hái:
  • Phần cây nằm trên mặt đất ( gồm cây, cành, lá và hoa), lá tươi thu hái quanh năm, bộ phận khác của cây thường được thu hoạch vào mùa thu và mùa đông, phơi khô trong bóng râm và cắt khúc.
  • Thuốc có thể dùng sống hoặc sao cho đến khi có màu vàng và đen.
3. Thành phần hóa học:
  • Trong Kinh giới có Schizonepeta tenuifolia Briq, có chừng 1,8% tinh dầu, thành phần chủ yếu là d. limone, d.menton, một ít d. limonen (Kinh giới tươi).
  • Tác dụng dược lý: Nước sắc và cồn ngâm kiệt thuốc có tác dụng hạ nhiệt nhẹ, an thần, làm giãn cơ trơn phế quản của chuột lang, chống dị ứng.
4. Vị thuốc kinh giới theo y học cổ truyền:
Kinh giới vị cay, tính ấm, thơm ngọt, không độc, đi vào 2 kinh phế và can.
Tác dụng:
  • Làm ra mồ hôi, giải nhiệt, khu phong, tán hàng, tán ứ, điều chỉnh tuyến huyết dịch tuần hoàn, hạ nhiệt lực trong người.
  • Kinh giới dùng để trị các bệnh như ngoại cảm phong tà, phát sốt, nhức đầu, tắc mùi, ho, mẩn ngứa, sởi mới phát ban, mụn nhọt, đau họng, thũng độc, chảy máu cam, ho, nôn ra máu, đại tiểu tiện ra máu, rong kinh, băng huyết; sản hậu, cấm khẩu, tứ chi co quắp.
  • Lá kinh giới có mùi thơm dễ chịu, vị cay, tính ấm, có chứa khoảng 1% tinh dầu. Hoa kinh giới phát hãn (làm ra mồ hôi) mạnh hơn cả lá kinh giới.
  • Kinh giới còn có tên là Giả tô, vì tính vị cay ôn, giống như Tử tô, nhưng Kinh giới cay mà không gắt, ôn mà không táo, đúng là thuốc hơi cay, hơi ôn. Cho nên người bị thương hàn, ôn bệnh thuộc cảm mạo, thì bất luận phong hàn, phong nhiệt đều có thể dùng được (Đông Dược Học Thiết Yếu).
  • Kinh giới có tác dụng phát tán khử hàn như Ma hoàng, nhưng Ma hoàng lại mạnh mẽ, nhanh chóng, Kinh giới thì tương đối hòa hoãn. Vả lại Ma hoàng thiên về khứ hàn tà ở lưng thuộc kinh Thái dương, còn Kinh giới thì khứ hàn tà ở toàn thân (Đông Dược Học Thiết Yếu).
  • Sức phát hãn của hoa Kinh giới (Kinh giới huệ) mạnh hơn Kinh giới. Không có mồ hôi dùng hoa Kinh giới, có mồ hôi dùng Kinh giới sao; vào huyết phận dùng Kinh giới sao thành than (Đông Dược Học Thiết Yếu).
  • Chữa viêm họng, viêm amidal cấp: Sách xưa có câu: "Yết thống tấn dụng Kinh giới", ngày nay bài thuốc chữa bệnh viêm họng, viêm amidan thường phối hợp Kinh giới với Cát cánh, Cam thảo tăng thêm tác dụng tiêu viêm
Liều lượng:
  • Từ 3-10g dạng khô sắc uống hoặc hòa với rượu.
  • Dùng ngoài để tắm liều không cố định
5. Một số bài thuốc dùng độc vị kinh giới:
  • Bài thuốc Dũ Phong Tán: Kinh giới huệ (hoa kinh giới) sao khô, tán bột, mỗi lần dùng 10g uống với nước Đồng tiện hoặc rượu ngâm Đậu đen, có tác dụng: Dưỡng huyết, khu phong, trị sinh xong bị trúng phong cấm khẩu, hàm răng cắn chặt, bất tỉnh, tay chân tê bại.
- Nếu người bệnh đã cứng miệng, răng nghiến chặt không mở ra được thì dùng múi chanh chà vào răng nướu để người bệnh mở được miệng. Tranh thủ đổ thuốc này vào miệng để bệnh nhân uống ngay sẽ tỉnh
- Bài Dü Phong Tán đã được các sách đều khen ngợi là hay – Lý Thời Trân (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển)
  • Trị ngón chân lở loét: Kinh giới gĩa nát, đắp vào chỗ đau (Giản Tiện phương).
  • Trị đinh độc sưng đau, các chứng nhọt độc: Kinh giới 1 nắm, sắc với 5 chén nước còn 1 chén, chia làm 3 lần uống lúc nguội (Dược Tính Luận).
  • Trị mọi chứng ở đầu, mắt đau do lao huyết, phong khí gây nên đầu đau, chóng mặt: Hoa Kinh giới, tán bột, mỗi lần uống 12g với rượu (Long Mộc Luận).
  • Trị sản hậu bị trúng phong: Kinh giới tán nhuyễn, hòa với rượu uống. Công dụng như thuốc tiên (Dược Phẩm Vậng Yếu).
  • Trị trúng gió méo miệng (liệt dây 7 ngoại biên): Lá kinh giới 1 nắm giã lấy nước uống ngay.
  • Trị nặng đầu, cứng gáy: Lá và hoa kinh giới phơi trong bóng râm cho khô nhồi vào gối đầu hoặc rải xuống chiếu để nằm (có sách dặn chỉ gối sau tiết thu, đến tháng lập xuân bỏ đi).
  • Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa, mụn nhọt: Kinh giới để tươi nấu nước uống và tắm hằng ngày.
  • Chữa cảm lạnh phát sốt, nhức đầu đau mình ê ẩm không có mồ hôi: Kinh giới hoa (hoa, cành, lá) 20g. Sắc uống 1 lần lúc thuốc còn nóng.
6. Một số bài thuốc nghiệm phương có kinh giới:
a/. Chữa chứng biểu phong hàn: biểu hiện đau đầu, ớn lạnh, sốt không có mồ hôi. Kinh giới phối hợp với Phòng phong và Khương hoạt mỗi thứ 12g sắc uống .
b/. Bài thuốc Kinh phòng bại độc tán:
Nguyên liệu:
Kinh giới 8g Phòng phong 8g Độc hoạt 8g
Sài hồ 8g Tiền hồ 8g Chỉ xác 8g
Phục linh 8g Cát cánh 8g Xuyên khung 4g
Cam thảo 4g
Chủ trị: cảm mạo, cảm cúm, đau đầu, sốt, nhức mình dùng bài Kinh phòng bại độc tán
Cách dùng: đem các vị thuốc sắc với 400ml nước đến khi còn khoảng còn 100ml, uống 02 lần/ngày.
c/. Chữa cảm đau nhức các đầu xương: Kinh giới tươi (cành non, lá) 50g. Gừng sống (10g), hai thứ rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt cho bệnh nhân uống, ngày uống 2 lần, bã thuốc xoa dọc xương sống từ trên xuống.
d/. Chữa các chứng chảy máu: Dùng thang Kinh giới kết hợp với thang Hoa hòe trị tiêu có máu, kết hợp thêm lá Trắc bách diệp, Bạch mao căn, trị chảy máu mũi.
e/. Bài thuốc Chữa viêm mũi dị ứng: Dùng hoa Kinh giới 8g, Bạc hà 8g, hoa Húng quế 8g, Cây cứt lợn 12g, lá Cối xay 12g, sắc nước uống, chia 2 lần trong ngày.
f/. Trị sản hậu chảy máu cam nhiều: Kinh giới, bồi khô, tán bột. Uống 8g với nước Đồng tiện (Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương trích của Hải Thượng Lương phương.
g/. Trị các chứng phong làm mắt lệch, miệng méo (liệt mặt): Kinh giới (loại xanh) 1 cân, Bạc hà (tươi) 1 cân, tất cả cho vào cối đá, giã nát, dùng vải trắng sạch vắt lấy nước cốt rồi cho vào nồi đất hoặc nồi nhôm, nấu thành cao. Lại lấy phần bã gĩa, lấy 2 phần, bỏ đi 1 phần bã xấu. Đem 2 phần tốt đó phơi nắng cho khô, tán bột. Trộn với cao đã nấu trước, làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 15 viên với nước đun sôi, ngày 2 lần. Cần kiêng những thức ăn có tính động phong hỏa như cua biển, tôm, thịt mỡ, rượu (Kinh Nghiệm phương).
h/. Trị trẻ nhỏ bị thoát giang: Kinh giới, Tạo giáp, 2 thứ bằng nhau, nấu lấy nước thật đặc, dùng để rửa. Rồi lấy sắt nung đỏ nhúng vào nước, lấy nước đó bôi. Bài này cüng trị được chứng tử cung sa (Kinh Nghiệm phương).
g/. Trị trẻ nhỏ rốn sưng: Hoa Kinh giới nấu lấy nước đặc để rửa. Rồi dùng Hành nướng cắt mỏng để nguội cho nó hết hơi hỏa độc rồi dán vào chỗ đó là tiêu tan ngay (Hải Thượng Lương phương)
Trị trĩ lậu sưng đau: Hoa Kinh giới, nấu nước thật đặc, hàng ngày dùng để rửa thường xuyên sẽ khỏi (Giản Tiện Phương).
i/. Trị tiêu ra máu: Kinh giới 80g, Hoa hòe 40g, sao vàng sẫm, tán bột. Mỗi lần uống uống 12g với nước trà xanh (Giản Tiện Phương).
k/.Trị bắp chân lở loét: Kinh giới đốt thành than, trộn với nước cốt Hành, bôi. Nhưng phải dùng Cam thảo nấu lấy nước, rửa rồi mới bôi thuốc vào (Trích Huyên phương).
g/. Làm đẹp: Lá cây kinh giới ngăn ngừa mụn nhọt, giúp làm trắng da, khô thoáng các lỗ chân lông, giúp da mịn màng, giảm thiểu các loại mụn.
- Lá kinh giới, ngải cứu và tía tô mỗi loại khoảng 100 g, rửa sạch rồi đun sôi với 500ml nước. Đổ nước lá vừa sôi ra chậu nhỏ, thêm chút muối và vắt nửa quả chanh.
- Trước khi xông, rửa mặt sạch bằng nước thường, để hơi nóng bốc lên xông vào mặt với khoảng cách an toàn trong thời gian 20 -30 phút. Thực hiện vào buổi tối trước khi đi ngủ, mỗi tuần khoảng 2- 3 lần.
Lưu ý khi dùng
  • Ðể cầm máu, thuốc cần được sao tồn tính (hoặc sao cho đến khi thuốc ngả màu vàng và đen).
  • Kinh giới huệ ( Hoa kinh giới ) tác dụng mạnh hơn.
  • Không dùng đối với nhọt lở đã chảy mủ, trẻ em sởi thời kỳ toàn phát và hồi phục.
  • Ở Việt Nam có một cây khác cũng được gọi là Kinh giới và dùng làm thuốc là cây Origanum syriacum (Lour.) cùng họ (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
6. Một số nhận xét về vị thuốc kinh giới của người xưa
  • Phụ nữ sản hậu đều lấy Kinh giới làm vị thuốc cốt yếu vậy (Đái Nguyên Lễ Yếu Quyết Phương)
  • Ông Chu Thủ Nhân ở huyện Võ Tiến nói rằng: Cái cổ của ông đau cứng không thể quay được, thế mà tôi dùng bài thuốc dưới đây mấy ngày là bớt. Nếu bị lở loét thối tha, dùng gốc cây Kinh giới 1 đoạn ở dưới gốc chẻ nhỏ, bỏ vào nồi nước nấu sôi kỹ, để hơi ấm rửa. Một lúc sau, xem chỗ lở nát có chỗ nào tím đen thì dùng kim khêu cho chảy máu độc ra, rồi lại rửa 3-4 lần nữa. Lại dùng Chương não, Hùng hoàng, 2 vị bằng nhau, tán bột, hòa với dầu mè, bôi vào chỗ chảy nước, ngày hôm sau lại rửa, lại bôi thuốc cho đến khi khỏi (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
  • Kinh giới trị phong: Quan tướng quốc họ Cổ gọi là Tái Sinh Đơn, ông Hứa học sĩ cho là nó có công như thần như thánh; Ông Đái viện sứ cho rằng Kinh giới là thuốc chủ yếu của bệnh sản hậu; Ông Tiêu Tồn Kính gọi là một nắm vàng. Không phải vô cớ mà có những tên gọi như vậy. Tuy nhiên, khi dùng phải xét: người đời nay hễ gặp chứng phong liền dùng Kinh giới, Phòng phong là thuốc sơ khí, tán phong, cùng với nhau. Họ không biết rằng phong ở trong da, ngoài niêm mạc thì dùng Kinh giới làm chủ, không giống như Phòng phong nó chạy vào đến xương thịt của người ta (Dược Phẩm Vậng Yếu).
  • Ngày xưa ông Giả Tự Đạo nói rằng, bài Kinh Giới Tán xuất xứ từ ‘Hội Công Đàm Lục’, trước sau đã dùng nhiều lần, rất công hiệu. Chính con tôi tên là Thuận bị bệnh trúng phong không nói được, nguy kịch đến nơi, thế mà uống bài này liền đỡ ngay, thật là quý vậy thay. Thật là bài thuốc vãn tử hồi sinh làm cho người ta chết sống lại được vậy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
  • Kinh giới là 1 vị thuốc thánh trong những bệnh về phong dược và về huyết cùng các chứng mụn nhọt ghẻ lở vậy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
​Nguồn: Tổng hợp
Lời tâm sự:
  • Bạn đọc thân mến, sức khỏe là điều đáng quý, hằng ngày chúng ta luôn phải đối mặt với những căn bệnh thông thường do sự thay đổi của thời tiết gây ra. Một số bệnh có thể đến rồi tự đi, một số bệnh được chữa rất đơn giản chỉ bằng những cây thuốc vườn nhà dễ kiếm, những bài thuốc dân gian rất hiệu quả, những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc tốt mà chi phí thấp, ai cũng có thể chú ý làm được.
  • Hãy cùng thuochay.net chia sẻ, đóng góp cho nền y dược nước nhà những cây thuốc hay, những bài thuốc quý, những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc hiệu quả như vậy, vì sức khỏe thế hệ con cháu chúng ta, và cũng vì một nền y dược Việt Nam lành mạnh, nghiêm túc.
  • Kiến thức y học là vô hạn, trong quá trình soạn thảo và biên tập, chúng tôi không khỏi thiếu sót. Rất mong những bài viết, chia sẻ, góp ý của bạn đọc gửi tới để chúng tôi hoàn thiện hơn, hiện thực hóa thành những kiến thức, tri thức để lại cho sau này, và để cho chúng ta ai cũng có thể tìm được khi cần.
  • Tri thức được chia sẻ là tri thức tồn tại mãi, bằng tất cả lòng chân thành, chúng tôi sẽ cố gắng chia sẻ tất cả những gì chúng tôi có, để cho dân tộc chúng ta, con cháu chúng ta được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe một cách hợp lý, hiệu quả nhất.
Trân trọng !
Bùi Gia.