Chứng huyết thoát sắc trông trắng bệnh, da nhợt nhạt màu không tươi nhuận, có phải đâu chỉ tại dương hư.
Chứng khí thoát thần hiện hôn mê, mình run run có vẻ lạnh lùng, chớ vội nhận cho là nhiệt thịnh.
- Huyết thoát thì sắc cũng trắng bệch, nhợt nhạt, không tươi nhuận. Không chỉ riêng chứng dương hư thì mới có sắc trắng bệch như vậy. Nhưng cần phải tìm hiểu kỹ ở ý nghĩa của những chữ “sắc nhợt nhạt không tươi nhuận” để phân biệt, cái sắc trắng của chứng huyết thoát thì có màu trắng như màu thiếc, màu tro. Huyết là thứ làm cho sắc tươi đẹp. Nếu đã không có huyết thì làm gì còn có sắc tươi nhuận. So với chứng khí hư có màu sắc trắng xanh thì khác nhau rất xa.
- Sách nói: “tinh sinh khí, khí sinh thần” khí đã bị thoát ly thì thần sẽ bị hôn mê, không nên cho rằng thần hôn mê là chứng nhiệt thịnh mà cho dùng thuốc thanh nhiệt thì sẽ bị sai lầm về điều trị. Bởi vì khí đã bị thoát ly thì tất nhiên đưa tới tình trạng dương hư hỏa bại cho nên cơ thể không ấm mà run run, ớn ớn sợ lạnh, đó là những dấu hiệu rất rõ ràng.
Cơ vong thoát hiện ra đầy đủ, phải mau gấp hồi dương mà cứu nghịch, trong lúc này thận chẳng bằng tỳ
Bệnh đại hư trong thế dằng dai, nên nhằm vào thủy hỏa để vun bồi, trường hợp đó tỳ không bằng thận.
- Những chứng biểu hiện ra âm vong dương thoát, tay chân giá lạnh, mồ hôi đọng từng giọt ở trên trán, tinh thần hôn mê, so vai thở dốc, khí thoát gây nấc, khi đó chỉ nên dùng Sâm Phụ để hồi dương cứu thoát. Vị khí sắp tuyệt thì gia Bạch truật để nâng khí trung tiêu. Nếu như tinh huyết không sinh ra được mà dương khí lại hư suy, càng phải nên chú trọng vào bồi bổ cho vị, vị đã khỏe thì thận sẽ đầy đủ sức mạnh.
- Thận là cội nguần của ngũ tạng, là cơ sở của tính mệnh căn bản của sự sinh tồn, gọi nó là tiên thiên, là chủ chốt, ở vào cương vị tối cao, vai trò của nó không thể thiếu được. Nhưng đến khi âm dương bị thoát ly, tình thế tựa như nhà vỡ thuyền dò, không thể không trông cậy vào những tràng dũng sỹ là Sâm Phụ, đồng thời phải khéo léo động viên sử dụng nó để làm tròn sứ mạng. Trường hợp ấy thì tác dụng của thận không bằng tỳ.
- Những bệnh hư yếu nặng, đã uống nhiều loại thuốc bồi bổ khí huyết mà khí huyết vẫn không thấy tăng, thì phải nên nhằm vào căn bản là thủy hỏa, như bài Lục vị hoàn, Bát vị hoàn là loại thuốc bồi bổ mạnh cho chân âm, chân dương. Cội gốc một khi đã vững bền thì cành lá sẽ xanh tươi. Còn như khi tỳ vị yếu không đủ khả năng vận hóa, nên bồi bổ ngay vào mệnh môn hỏa, đó là phép “ tăng thêm củi dưới nồi” (phủ hạ gia tân). Đối với chứng tả lỵ lâu ngày, chữa vào tỳ mà không có chút công hiệu nào thì nên cứu thận để giữ chức năng bế tang. Tuy rằng thổ là mẹ đẻ của vạn vật, nhưng thận là nguần sinh hóa là khởi điểm của tiên thiên, tới lúc đó thì tỳ phải nhường bước cho thận.
Bài Tứ vật phải đâu phương bổ huyết, những phụ nữ kinh nhâm khô cạn, nếu chuyên dùng chẳng chút thành công.
Bài Tứ quân vốn thuốc thuần dương, nào trẻ thơ hinh vóc gầy đen, chớ sử dụng kẻo gây nên họa.
- Căn bản âm không thể sinh ra được dương. Những thuốc chữa về phần âm chỉ nên lấy những loại có bẩm tính êm ái mềm nhuận, để cho âm được yên lặng mà sinh huyết. Đó là phương pháp dưỡng âm để cho huyết tự sinh. Vậy thì Tứ vật thang là thuốc dưỡng huyết thì mới phải, nếu gọi là thuốc sinh huyết thì không đúng. Song bẩm tính của cỏ cây chỉ có thể bù chỗ vô hình để sinh ra hữu hình, bù đắp những cái hao mòn mất mát thì không có gì bằng các loại cao nhung của hươu nai, rau thai, bột sữa, là những thứ hữu hình (1) đồng loại với nhu cầu của tinh huyết, mới là thỏa đáng. Kinh nói: “Tinh huyết suy kém không đủ thì nên bồi bổ bằng vị của thức ăn”. Vậy thì vị của thức ăn nuôi sống hằng ngày là rất quan trọng, cho nên những thứ thuốc có tính chất tư bổ, thông qua sự ăn uống vào vị đã thu được một nửa công lao, ý nghĩa của cổ nhân thực sự là sâu sắc. Đó cũng là điều tôi đã tâm đắc. Phàm ai muốn nghiên cứu về mặt điều bổ cho tinh huyết, cần biết rằng không có ý nghĩa nào sâu sắc hơn điều đó, không nên cho rằng Tứ vật thang là thuốc cần thiết để sinh huyết.
( (1) Dược vật có phân ra loại “Hữu hình” là thứ lấy nguần gốc từ động vật và loại “ Vô hình” là thứ lấy từ nguần gốc thực vật, khoáng thạch)
- Trẻ thơ thuần dương không có âm, ý muốn nói là trẻ thơ chưa đến tuổi dạy thì, những khi bị bệnh không nên chỉ nhằm cứu dương một cách đơn thuần. Huống hồ những đứa trẻ hình vóc gầy đen, da nóng hừng hực, mà căn bản của chân âm lại vì huyết dịch đã bị khô cạn, cho nên chân âm lại càng hư. Dương vượng thì âm tiêu hao, đó là cái lẽ tất nhiên. Bài Tứ quân là thuốc thuần dương, khí vị thơm ráo. Há có lợi gì cho thể chất của đứa trẻ vô âm. Phàm khi những đứa trẻ cần sử dụng Tứ quân, trừ chứng nôn mửa thuộc hàn, chứng tiết tả lâu ngày, các chứng da mình mát lạnh, thũng nề đầy trướng , mạn kinh mạn tỳ thì khi dùng phải thận trọng. Nếu đã thấy tiêu mòn gầy đen mà vẫn cứ sử dụng kéo dài thì tân dịch mỗi ngày một khô mà sẽ gây ra họa lớn. Người thầy thuốc nhi khoa cần phải hiểu rõ điều đó.
Quy tỳ thang uống kèm thuốc bổ, vị Mộc hương cần nên giảm bỏ, vì đề phòng hao tổn nguyên dương.
Bổ trung thang cốt để đề cương, vị Thăng Sài nên phải trọng dụng với mục đích ban hành xuân lệnh.
- Những chứng mệnh môn hỏa suy lại kèm có hiện tượng khí huyết hậu thiên đều hư, cho nên đã sử dụng Bát vị để bổ hỏa, lại uống xen kẽ với Quy tỳ thang để kiêm bổ cả thủy hỏa và khí huyết. Nhưng chứng căn bản là hỏa hư, hỏa tức là khí, có một chút gì động khí cũng không nên dùng. Huống hồ vị Mộc hương là thuốc hành khí tán khí, thấu triệt cả trên dưới, cho nên phải giảm bỏ để bảo vệ cho khí được chu toàn.
- Dương khí hư kém thì bị hãm xuống, ý nghĩa của bài Bổ trung là nâng đẩy khí từ dưới lên, tựa như tiết đông chí, khí nhất dương chớm nảy sinh để phân bố cái bệnh buông cởi tôt tươi (phát vi) của mùa xuân mầm mống nhú sinh ra, khí xuân đầy dẫy khắp không gian. Cho nên nói “thang thuốc Bổ trung trọng dụng ở hai vị Thăng ma và Sài hồ”. Vậy mà người không hiểu lý do lại đem Thăng Sài sao mật, bỗng dưng đem cái dương khí trong nhẹ hãm vào vòng ngọt ngào nê trệ, hoặc có thể bị mất hết tính năng của nó. Như vậy thì thực là một bọn đui mù không đáng để nói về ý nghĩa xử phương được nữa.
Giữa đôi thận là cội nguần sinh cho tạng phủ, bệnh quái kỳ lấy đó làm trọng tâm
Hoàn Lục vị là phương thuốc báu của hài nhi, trẻ suy nhược dưỡng âm là chủ yếu.
- Mệnh môn nằm giữa hai bên thận, là cội rễ của mười hai kinh mạch, là nguần gốc của tạng phủ. Mọi bệnh tật của người ta không thể vượt ra ngoài vòng âm dương. Phàm những bệnh rất hư yếu mà các chứng biểu hiện ra rất nhiều, có những hình trạng kỳ quái không thể nào hình dung được hết, phần nhiều người ta không thể hiểu rõ được. Nhưng chỉ cần dựa vào chênh lệch của âm dương, đem những loại thuốc chủ yếu bồi bổ cho thủy hỏa. Khi căn bản đã được củng cố thì các hiện tượng giả tạo của ngọn ngành không cần điều trị cũng tự giải tán.
- Tuổi trẻ thiên quý chưa thịnh vượng(chưa dậy thì), cho nên nói là thuần dương vô âm. Cái dương đơn độc đó tức là dương non trẻ, sao có thể gọi cái thuần đó là hữu dư được.
- Mỗi khi thấy dương chứng không có âm thu liễm, hư hỏa dễ bị kích động thì lại cho rằng bệnh trẻ thơ dễ bị phá nhiệt, rồi lấy làm chủ quan với ý nghĩa chữ thuần dương cho dùng thuốc hàn lương công kích bừa bãi, thật là đáng tiếc! Căn bản đã không có âm rồi, mà lại đem tiêu diệt chân dương, thì sẽ đưa tới sự suy bại cả hai đường.
- Hãy quan sát xem những bệnh nhi, thấy dễ sinh chứng sốt cao là do hỏa không có thủy chế ngự. Dễ sinh ra hiện tượng co giật là do Mộc không có Thủy nuôi dưỡng. Thậm chí đến khi hư suy quá mà sinh ra đau đớn là hiện tượng chân thủy thiếu thốn mà tân dịch khô kiệt. Cả đến các chứng dô ngực, gù lưng, hở thóp, lõm thóp mềm cổ và các chứng ngũ nhuyễn, ngũ ngạnh, ngũ trì (1) hết thảy đều do Mộc và Thủy suy yếu, mà biểu hiện ra chứng trạng của gân xương.
- Nguyên tắc trong khi trị bệnh trẻ em, cần tùy chứng để xử cho phương, nhưng luôn luôn đừng quên hai chữ “vô âm”. Cho nên thường phải lấy Lục vị hoàn để bổ mạnh cho chân âm vì chính nó là loại thuốc màu nhiệm của nhi khoa.
((1) Ngũ nhuyễn: 5 chứng mềm ở trẻ con: đầu mềm, gáy mềm, chân tay mềm, da thịt nhão, miệng mềm. Ngũ ngành: 5 chứng cứng: ngẩng đầu, hơi thở cứng, long bàn tay chân cứng, miệng cứng, da thịt cứng. Ngũ trì: 5 chứng chậm: chậm mọc tóc, chậm mọc răng, chậm biết lẫy, chậm biết đi, chậm kín thóp.)
Đơn nhiệt sinh là hiện tượng vong âm
Nguyên thần lộ là nghuy cơ thất thủ
- Phàm những chứng đơn nhiệt, sắc mặt sạm, sắc lưỡi đen, vóc tựa như củi khô, da nhăn nheo khô, miệng loét, họng đau uống nhiều sốt cao, đại tiện khô ráo, tiểu tiện hay đi luôn và sẻn ít, buồn bực nói nhảm, hoặc hôn mê không biết gì. Đó đều là biểu hiện vong âm. Sách nói: “Tân dịch kiệt hết thì chết”.
- Đang lúc một khối tà hỏa vun đắp ở trong, chảy vàng sém đá, chân âm chân thủy bị nung nấu, tân dịch bị cạn khô, nguần tinh huyết bị kiệt hết, chân âm đã bị mất ở dưới, dương không được sự thu liễm của âm thì dương cũng kế tiếp bị vong thoát ở trên, cái thế ly thoát như vậy thì phỏng có xa gì cái chết.
- Vậy thì tại sao người ta chỉ biết lo ngại cho hiện tượng quyết nghịch là đưa tới gần sự thoát dương mà không nghĩ đến chứng đơn nhiệt, là hiện tượng vong âm sẽ tới. Chứng thoát dương thì dùng Sâm Phụ để hồi dương, đó là kế vẹn toàn, mà chứng vong âm thì tại sao cổ nhân không lo tính tới nó.
- Tôi từng đã gặp những chứng đó, thường muốn đem hết sự cố gắng của bản thân để giành giật lấy cái sống, nhưng trong sách vở hoàn toàn không có phương hướng để bắt trước. Cho nên không thể không đem hết tâm tư để lo tính cho chu toàn, cho nên mới chế ra phương Bắc âm. Trong khi áp dụng cũng đã cứu chữa được khá nhiều, thực không dám nói là bổ cứu cho sự thiếu sót của người xưa,chỉ hy vọng bổ sung vào chỗ các bậc hiền triết chưa đẻ tâm lưu ý. “chứng thoát dương thì uống bài Sâm Phụ, chứng vong âm thì dùng phương bảo âm”
- Những người ăn uống sinh hoạt bình thường, hình dung khỏe mạnh, bỗng thấy nói năng như hoảng hốt rối loạn, đi đứng mất vẻ thăng bằng. Đó là dấu hiêu cho biết nguyên thần đã bị tan rã, tình trí tư duy mơ hồ không trong sáng, cho nên có chứng bệnh bạo phát chết nhanh.
- Người có tinh thần trách nhiệm về nghiệp vụ trị bệnh đối với vấn đề đó vẫn còn rất hờ hững chưa chủ ý lắm, bởi vậy cũng không lấy gì làm lạ khi không thấy cổ nhân đề cập tới phương pháp điều trị.
- Con người có cái căn bản của sự sống. Huyết sinh ra tinh, tinh sinh ra khí, khí sinh ra thần. Tinh khí thần là vật báu nhất của con người, đem cân nhắc thì thần là thứ quan trọng bậc nhất.
- Tôi từng thấy những trường hợp đó, đón biết trước dấu hiệu chớm nẩy sinh, muốn đề phòng trước khi gây tai biến đã tìm kiếm rộng rãi, song thực ra không có thuốc nào để đối phó. Xem hết các sách chỉ thấy các phương trấn tâm, an thần, ninh thần v.v….kiểm điểm các vị thuốc chẳng qua cũng chỉ có những vị thuốc tầm thường như Xương bồ, Viễn chí, Thần sa, Toan táo nhân, Bá tử nhân, Liên nhục v.v….còn như muốn dành lại sự sống trong bước đường cùng thì không thấy thứ thuốc nào đảm đương nổi trọng trách ấy.
- Chợt đọc thấy trong sách Cảnh nhạc có đoạn nói: “ Thủy hỏa không trao đổi với nhau thì thần sắc sẽ bị bại hoại”. Lúc đó tôi mới tỉnh ngộ. Bởi vì Tâm tuy là cơ sở tàng thần, nhưng thực chất là do chân âm dưỡng dục, để làm cho cương nhu(âm dương) cân đối, như quẻ “ký tế” ở trong kinh dịch. Cho nên muốn bổ thần thì không gì bằng dùng Bát vị hoàn để bồi bổ vào căn bản của âm dương để làm cơ sở vật chất cho thần minh nương tựa.
Không có dương thì âm không thể nào sinh, huyết được nhiều, khí được ít, mới đúng là khí dược có cống sinh huyết. Chớ nên chuyên dùng nhiều loài cay ráo, vì chỉ làm hao tổn chân âm.
Không có âm thì dương không thể nào hóa, khí dược nhiều huyết dược ít, nào ai bảo huyết dược không tài ích khí, nếu như quá chuộng nhiều thuốc nhuận mềm, luống những ngại tổn thương vị khí.
- Người xưa nói: “ khí dược có công sinh huyết, huyết dược không có lẽ nào ích khí được”. Đó là do không có dương thì âm không thể sinh được, nhưng không có âm thì dương không thể nào hóa được. Bởi vì theo nguyên lý âm dương thì dương bắt rễ từ âm, âm bắt rễ từ dương, hai bên tác dụng lẫn nhau.
- Trong thủy không có hỏa thì gây ra băng giá quá mức, không thể nào tư nhuận cho vạn vật. Trong hỏa không có thủy thì gây cháy bốc tàn lụi không thể nào sưởi ấm được vạn vật.
- Cảnh nhạc nói: “ khí dược phải giúp sức cho huyết dược mới có khả năng bổ huyết. Huyết dược có giúp sức khí dược thì mới tăng cường khả năng ích khí”. Câu này thật là sâu sắc.Theo ý tôi nhận xét, những chứng khí huyết đều hư thì mới sử dụng kết hợp. Nếu muốn dùng đơn thuần một mặt thì nên tìm vào loại khí dược (có chất nhu nhuận) là chất âm ở trong dương thì cũng có thể bổ huyết. Loại huyết dược (có khí thơm tho) là tính dương ở trong âm cũng có khả năng bổ khí, như vậy thì sẽ được công hiệu rất thỏa đáng. Nếu không suy tính trước điều đó thì khí dược sẽ trở nên hao âm, huyết dược sẽ trở nên tổn vị, không thể nào tránh được sai sót.
Dùng thuốc bổ khí, phải kết hợp với phương thuốc sơ thông, nghĩa đóng mở đã nên đầy đủ.
Lập phương tư âm, nên giúp sức cùng loài thảm tiết, cơ bổ tả mới thực chu toàn.
- Cổ nhân khi xếp đặt phương thuốc, nếu là phương thuốc bổ khí thường kèm với thuốc có tính chất sơ thông để giúp sức.
- Lập phương thuốc tư âm thì kèm theo loại thuốc có tính chất thẩm thấp lợi niệu, nếu tư âm đơn thuần sẽ gây nê trệ.
- Tả ít bổ nhiều thì thuốc bổ có nhiều tác dụng và dễ thu hiệu quả.
- Đó là cách dùng thuốc có bổ tả kết hợp với nhau, thì mới đạt được cái lý huyền diệu đóng mở của âm dương. Như vị Phục linh ở trong bài Tứ quân, Trần bì trong bài Bổ trung, Mộc hương trong bài Quy tỳ, đó là tác dụng làm cho dương vận hành. Vị Xuyên khung trong bài Tố nguyên, đó là tác dụng hỗ trợ cho phép tư âm.
Điều bổ thận hư lao rất khó, nếu kiêm chứng biếng ăn và ỉa lỏng, đã khó càng nhiều nỗi khó thêm.
Trị liệu chứng nóng sốt lâu ngày, nên lựa chiều vị khí để tư âm, thanh nhiệt, chớ chờ khi nhiệt hết.
- “Một gáo nước không thể cứu được một đám cháy cả xe củi”. Câu này nói lên chân âm chân thủy là thứ rất khó vãn hồi. Bởi vì bệnh lao âm hư không thể nào tránh khỏi dẫn đến tình trạng tinh huyết khô cạn. Phương pháp điều trị chung, không ngoài việc bồi bổ mạnh hơn cho hai mặt tinh huyết.
- Nếu thấy chứng biểu hiện ra nóng âm ỉ trong xương, khát nước uống nhiều, đại tiện táo, thì nên chuyên dùng loại thuốc thuần âm, và nên chọn những phương có tính chất tư dưỡng trơn nhuận để tập trung điều dưỡng cứu vãn lấy chân âm đang bị nguy ngập ở trong tình thế lửa cháy ngút ngàn. Ngoài ra không còn có cách gì hơn.
- Nhưng trong cái thế khó khăn ấy còn có cái khó gấp bội nữa, đó là chứng: bên ngoài thì da thịt nóng như hơ lửa, thịt bị sút mòn, gầy róc, tinh thần bị hôn mê, ở trong thì ăn uống rất kém, đại tiện thì đi ra chất phân lỏng dính.
- Trường hợp này muốn dùng loại thuốc thơm tho khô ráo để cấp cứu lấy con của nguyên dương, để phong ỉa chảy trông tràng (tháo cống, ỉa lỏng nhiều lần không cầm) thì ngại tỳ dương ở trong tình thế bị rạc khô không sao chịu nổi. Muốn dùng loại thuốc thuần dịu nhu nhuận, để vãn hồi lấy tinh huyết và dập tắt cái thế nóng đang bốc bừng bừng, thì lại làm nê trệ cho trung tiêu. Dù cho bậc tài chí cũng rất là lung túng. Vì rằng sợ chứng nhiệt nên không quả quyết, nghĩ tới hàn thì lại ngập ngừng. Thế là đành chịu bó tay chờ đợi.
- Tôi thường gặp phải tình huống đó, nên mới chế ra hai bài “bổ âm tiếp dương” và “bổ dương tiếp âm”. Tuy không thể kéo lại được cơ tạo hóa nhưng trong cố gắng tìm tòi chưa có phương pháp nào hơn phương đó.
- Chứng phát nhiệt nguyên nhân là do hỏa gây ra. Hỏa tức là khí, khí tức là hỏa, nếu trừ bỏ hết hỏa tức là làm tuyệt khí. Cá không có nước thì trong khoảng khắc sẽ chết. Con người không có khí thì trong khoảng khắc sẽ diệt vong. Vậy thì khí có thể cho tuyệt diệt, hỏa có thể trừ bỏ được chăng?
- Phàm những chứng phát nhiệt lâu ngày, chân âm đã cạn, thủy vô hình đã bị thiếu hụt, tân dịch suy kiệt, tinh huyết đã hao mòn, không nên đợi tới khi biểu hiện ra mặt sạm, lưỡi đen, vóc người gầy rạc, trong xương nóng âm ỉ, rồi mới nhận xét là chứng âm hư.
- Tôi đã gặp nhiều chứng này và đầu tư không biết bao nhiêu suy nghĩ, cố ngắng sưu tầm được một phương pháp rất linh hoạt. Thực là một bí quyết rất quý báu. Bởi vì âm huyết đã bị suy thì dương khí không thể nào khỏe mạnh một cách đơn độc, dương đã bị hư thì vị sẽ bị yếu. Cho nên trước hết phải lưu ý tới vị.
- Nếu như ăn uống chưa đến nỗi kém lắm, đại tiện còn điều hòa, thì nên tập trung vào mặt tư âm để rút nhiệt. Nhiệt không được thanh thì tân dịch ngũ tạng bị khô cạn. Âm bị bại thì dương bị diệt vong.
- Nếu bỏ ăn, ỉa lỏng mà nhiệt suy thế lại rất gay gắt, nên dùng các loại âm dược như Thục địa, Sinh địa, Mạch đông, Ban long, Đan sâm, bột sữa hoặc là toàn phần phương Lục vị để cứu vãn.
- Nếu thế nhiệt đã giảm nhẹ được 4 -5 phần thì phải chuyển sang dùng loại dương dược như các vị Nhân sâm, Bạch truật, Bào khương, Chích thảo để tiếp bổ cho vị khí. Khi thấy vị khí đã khỏe dần, ăn uống đã tiến triển dần mà nhiệt lại không giảm thì lại đổi sang âm dược để rút hỏa nhiệt. Uống một vài thang lại thấy hiện tượng vị hàn ăn kém thì lại đổi sang dùng dương dược. Nhưng phải chú ý cân đối cả hai mặt: nhiệt và mức ăn uống. Phân biệt loại thuốc âm dương để thay thế nhau điều trị cho thỏa đáng.
- Nguyên tắc là dương nên phải thắng âm vì âm không có khả năng sinh vật. Tuy chuyên chú về thanh nhiệt, nhưng không nên để cho hết nhiệt và mình mát lạnh, mà cần phải để lại vài phần nhiệt tồn tại. Bởi vì hỏa là thứ rất quý báu của sinh mệnh, nhiệt là thứ để sử dụng cho con người. Chân âm tổn thương thì có thể từ từ tìm cách vãn hồi nhưng chân dương đã bại hoại thì tình thế khẩn cấp như sợi dây đàn bị đứt rất nhanh chóng không sao cứu kịp.
- Người thầy thuốc chớ nên nóng vội thành công. Người nhà chớ nên ngại lâu mà chán nản. Đôi bên đều phải kiên trì mới có thể giữ được chọn vẹn.
Nhiệt bạo phát sẽ tổn thương dương, nên thanh hỏa để tưới nhuần phế khí.
Nhiệt lâu dài sẽ tổn thương âm, cần tráng thủy để bồi đắp thận dương.
- “Nhiệt thì tổn thương khí” cho nên các phương điều trị chứng cảm thử (nắng) chuyên nhằm vào thuốc bổ khí.
- Lại nói: “nhiệt thì tổn thương huyết” mà các phương thuốc thanh hỏa thường chú trọng nhiều vào thuốc bổ huyết.
- Vậy thì tại sao đã nói là nhiệt tổn thương khí còn nói nhiệt tổn thương huyết? Cũng là một thứ nhiệt mà khí huyết đều bị tổn thương như vậy?
- Nhưng nói về điều trị nhiệt thì biết nhằm vào khí hay nhằm vào huyết. Huyết hư mà nhằm vào bổ khí thì huyết lại càng khô. Khí hư mà nhằm vào bổ huyết thì khí lại càng uất?
- Ở đây cần phải hiểu rõ cái nhiệt làm tổn thương khí là thứ nhiệt bạo nhiệt từ bên ngoài dẫn tới bó kết lại, nhiệt ấy là do khí uất.
- Cái nhiệt mà làm tổn thương huyết là nhiệt lâu dài, nung nấu từ bên trong, là nhiệt ở âm phận.
- Như vậy nên bổ khí hay nên bổ huyết, nên dùng dương dược hay âm dược đã có đường lối cụ thể. Kinh nói: “Bệnh bạo phát không phải là âm chứng, bệnh mãn tính không phải là dương chứng” suy luận điều đó có thể liên hệ để nắm được ý nghĩa của đoạn này.
Kết hợp thuốc bổ khí huyết, nên tìm ở trong dương trong âm, mới thành đồng đội.
Phương pháp uống thuốc thang thuốc hoàn, phải chờ khi dở no, dở đói, sẽ chóng thu công.
- Cách điều trị chứng khí huyết đều đã dùng dương dược để bổ khí hư, lại phải dùng âm dược để bổ huyết thiếu. Song thế của hai cái cương và nhu không hòa hợp với nhau, tính tình của hai mặt ôn lương khó hiệp lực với nhau. Cho nên phải tìm những loại thuốc trong dương có âm như các vị Nhân sâm, Hoàng kỳ hoặc cao Bạch truật, bổ khí mà kiêm có bổ huyết. Các loại thuốc trong âm có dương như các vị Đương quy,Xuyên khung, Thục địa sao thơm v.v…bổ huyết mà lại kiêm có tính chất bổ khí. Như vậy, mới có thể làm cho nó đồng đội và gần gũi được với nhau, không mâu thuẫn với nhau, thì sẽ thành công trong điều trị.
- Về phương pháp uống thuốc, cổ nhân có chia ra bệnh ở trên hoặc bệnh ở dưới, uống trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn. Nếu mới suy xét qua loa thì thấy rất sáng tỏ, nhưng khi suy nghĩ cho kỹ thì hầu như chưa thỏa đáng.
- Bởi vì thức ăn vào trong dạ dày rồi dẫn chất tinh hoa dinh dưỡng tới tỳ, tỳ khí lại dẫn chất vinh hoa đó về Phế, Phế là nơi tụ tập, các kinh mạch đều hướng về phế, rồi sau mới phân bổ từng chất thích hợp cho mỗi tạng khác nhau.
- Vậy thì đồ ăn uống khi vào trong người không thể nào không qua con đường tiêu hóa đó, rồi sau mới phân bố cho các tạng phủ bên trong và tứ chi huyết mạch bên ngoài.
- Nếu như uống thuốc sau bữa ăn để điều trị bệnh ở phần trên, cũng phải đợi cho thức ăn tiêu hóa trước rồi sau đó chất thuốc mới lưu hành được. Uống thuốc vào trước bữa ăn để trị bệnh ở phần dưới thì cũng phải đợi cho thức ăn phân hóa trước, rồi sau mới dẫn đưa sức thuốc đi được.
- Có lẽ nào bệnh ở phần trên hay bệnh ở phần dưới, mà thuốc không phải vào dạ dày để từ đó truyền sang tỳ phế thì sao thông đạt sang các tạng khác được. Đó chính là muốn nhanh nhưng lại hóa chậm.
- Tôi có một phương pháp riêng là nếu khi uống thuốc thang hay thuốc hoàn đều nên uống vào lúc lưng lửng dạ (nửa no nửa đói). Bởi vì no quá thì thức ăn làm trở ngại, đói quá thì sức của tỳ vị yếu không thể đưa dẫn sức thuốc được. Chỉ có cách đó là ổn đáng hơn. Chính là phương pháp trung bình không nhanh không chậm.
Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia.