HUYỀN TẪN PHÁT VI
Phần 10
Phương gia giảm (Cẩm nang)
- Trong trời đất mà không có thủy hỏa thì lấy gì mà phát triển được công năng của tạo hóa, trong con người mà không có thủy hỏa thì lấy gì để giúp cho việc hóa sinh. Bài Lục vị địa hoàng là tễ thuốc nhỏ để bổ âm dương, bài Bát vị địa hoàng là tễ thuốc lớn để cứu âm dương, trong thủy tìm hỏa thì ánh sáng không tắt, trong hỏa tìm thủy thì nguồn dòng không cạn, trong bổ có tả, uống lâu mà không có hại thiên thắng, tả ít bổ nhiều, tà trừ hết mà bổ càng thấy công hiệu.
- Hòa nhau giúp nhau thì năm tạng đều hòa, cội rễ đã tươi thì cành lá tự nhiên tốt thịnh, nếu gặp chứng hậu không giống nhau khó đem nguyên phương mà dùng cả được, thì hoặc đem phân lượng biến thông gia giảm nặng nhẹ, hoặc lấy một vài vị khác gia vào làm tá trợ, thì lực lượng của phương này vẫn còn mà công giúp đỡ cho nảy nở ra càng thấy rõ rệt. Nếu cứ chuyên chú chữa khí huyết tâm tỳ thì những môn ấy đều có chuyên phương hà tất phải mượn loại này để gia lẫn vào làm cho rối loạn, chỉ mang hư danh mà không có thực tế.
1. Nhị diệu địa hoàng hoàn: Chữa thấp nhiệt uất mà ở trong sinh ra đái đục hoặc sinh lở
- Thục địa 8 lạng, nhỏ lửa sao khô
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Sơn thù 4 lạng, tẩm rượu sao
- Mẫu đơn 3 lạng, sấy
- Phụclinh 3 lạng, sấy
- Trạch tả 3 lạng, tẩm nước muối sấy khô
- Hoàng bá 7 đồng
- Phụ tử 5 đồng, (Phụ tử cùng Hoàng bá tẩm chung với muối rượu 1 đêm, lấy ra. Hoàng bá thì sao sém, Phụ tử thì sấy khô)
- Mao thương truật 2 lạng, tẩm nước cơm, thái miếng, trộn với mè đen sao vàng
Lưu ý:
- Thấp nhiều nóng ít thì dùng Phụ tử 7 đồng, Hoàng bá 5 đồng.
- Thấp ít nóng nhiều thì dùng Phụ tử 5 đồng, Hoàng bá 7 đồng tẩm chung.
Các vị tán nhỏ, dùng Kim thoa, Thạch hộc 4 lạng, sắc đặc, cho vào 12 lạng mật ong luyện làm viên, mỗi lần uống 3 đồng với nước sôi, uống trước bữa ăn sớm và chiều. Kiêng rượu, gà, cá, các thứ xào, rán, nướng.
2. Dục tỳ cố thận địa hoàng hoàn
- Thục địa 8 lạng, sao gừng, rượu
- Sơn dược 6 lạng, sao vàng
- Phục linh 4 lạng, sấy
- Ngũ vị 2 lạng
- Trạch tả 3 lạng, tẩm muối rượu sao
- Bổ cốt chỉ 4 lạng, tẩm muối rượu sao thơm
- Thỏ ty tử, vò sạch ngâm rượu 3 ngày, nấu nhừ, giã thành cao, bỏ ngay vào thuốc đừng nên để tiết khí.
Các vị trên tán nhỏ, dùng Thục địa giã thành cao, cho thuốc vào quết nhừ, khô thì gia Kẹo mạch nha làm viên, mỗi sáng sớm uống 4 đồng cân với nước cơm sôi, kiêng thịt, rượu để tránh độc thấp nhiệt.
3. Song bổ địa hoàng hoàng
(Địa, Thù bổ thận tinh, Ty, Liên bổ thận khí cho nên gọi là song bổ)
- Thục địa 8 lạng, nhỏ lửa sấy khô
- Đơn bì 3 lạng, tẩm rượu sao
- Sơn thù 4 lạng, chưng với rượu rồi sao khô
- Phục linh 3 lạng, sấy
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Liên nhục 6 lạng, sao
- Trạch tả 3 lạng, tẩm rượu muối sao
- Thỏ ty 4 lạng, chế như phép trước, giã quết riêng.
Các vị luyện mật làm viên, mỗi sáng sớm uống 6 đồng với nước sôi.
4. Thanh tâm địa hoàng hoàn.
- Thục địa 8 lạng, nấu với nước trong.
- Đơn bì 3 lạng, sấy
- Sơn thù 4 lạng, chưng rượu sao
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Phục linh 3 lạng, tẩm sữa sao
- Trạch tả 3 lạng, tẩm muối rượu sao
- Viễn chí 3 lạng, nấu nước Cam thảo tẩm, lấy thịt phơi khô rồi sao.
- Ngũ vị 1 lạng, giã dập chưng với rượu, phơi khô sao.
- Mạch môn 3 lạng, bỏ lõi sao.
Các vị tán nhỏ, Thục địa giã nhừ cho vào thuốc, gia mật ong làm viên, mỗi sáng sớm đói bụng uống 4 đồng cân, nấu nước hạt sen làm thang tống.
5. A giao địa hoàng hoàn: Chữa phế thận bị tổn thương, ho mửa ra máu.
- Thục địa sao 1 cân, đem 8 lạng nấu lấy nước bỏ bã rồi đổ nước ấy vào 8 lạng kia nấu nhừ thành cao.
- Sơn dược 4 lạng, sao
- Sơn thù 4 lạng, chưng với rượu, phơi khô mà dùng
- Phục linh 3 lạng, tẩm sữa người rồi sao.
- Đan bì 3 lạng, sao
- Trạch tả 2 lạng, sao
- Mạch môn 4 lạng, bỏ lõi sao
- A giao 2 lạng, sao với Cáp phấn cho phồng thành viên.
Các vị trên tán nhỏ, dùng cao Thục địa luyện vào thuốc, gia mật làm viên, mỗi sáng đang đói bụng uống 4 đồng cân với nước sôi hoặc nước muối.
6. Tư kim tráng thủy địa hoàng hoàn: Tư dưỡng phần âm để sánh với phần dương, bổ thêm cho kim để mạnh thủy.
- Thục địa 3 cân, nấu lấy nước bỏ bã, luyện thành cao 12 lạng.
- Sơn dược 6 lạng, sao vàng
- Đơn bì 4 lạng, sao
- Phục linh 4 lạng, tẩm sữa phơi khô
- Sơn thù 6 lạng, chưng với rượu phơi khô
- Trạch tả 3 lạng, tẩm rượu, muối, rồi sao
- Ngưu tất 4 lạng, trộn với muối nhạt rồi sao
- Mạch môn 5 lạng, bỏ lõi sao
Các vị trên tán nhỏ, dùng cao Thục địa luyện vào thuốc thêm mật luyện làm viên, uống với nước sôi khi đói bụng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 60 viên.
7. Gia vị Thất vị hoàn: Thanh phế kim, bổ thận thủy, nạp khí chứa vào nguyên chỗ, dẫn hỏa về nguồn
- Thục địa 8 lạng, đổ nước trong vào nấu
- Sơn thù 4 lạng, chưng với rượu sao
- Mẫu đơn 3 lạng, sao
- Phục linh 3 lạng, tẩm sữa sao khô
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Trạch tả 3 lạng, tẩm muối rượu sao
- Mạch môn 3 lạng, bỏ lõi sao
- Nhục quế 1 lạng, bỏ vỏ
- Ngũ vị 1 lạng, tẩm mật rượu sao.
Đem Thục địa giã nhừ, hòa mật, bỏ thuốc vào làm viên, mỗi sáng sớm lúc đói lòng uống 4 đồng cân, với nước muối nhạt hoặc nấu bài Sinh mạch làm thang mà uống.
8. Hòa can tư thận địa hoàng hoàn (Bệnh phụ khoa dùng bài này thì rất hợp)
- Thục địa 8 lạng, nấu với rượu
- Sơn thù 4 lạng, nấu với rượu
- Mẫu đơn 4 lạng, sao rượu
- Phục linh 3 lạng, tẩm sữa sao khô
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Trạch tả 3 lạng, tẩm rượu muối sao
- Quy thân 3 lạng, sao rượu
- Bạch thược 4 lạng, sao với nước mật
- Nhục quế 1 lạng, bỏ vỏ
Các vị tán nhỏ, dùng Thục địa cho vào thuốc gia thêm mật, giã nhừ làm viên, mỗi lúc đói bụng uống 4 đồng cân với nước sôi, mùa đông thì uống với rượu.
9. Tư âm bát vị hoàn
- Thục địa 8 lạng, nấu với nước trong
- Sơn thù 4 lạng, chưng với rượu phơi khô
- Mẫu đơn 3 lạng, sao
- Sơn dược 4 lạng, sao vàng
- Phục linh 3 lạng, tẩm sữa phơi khô
- Trạch tả 2 lạng, tẩm nước muối
- Mạch môn 3 lạng, bỏ lõi sao
- Ngũ vị 1 lạng, tẩm rượu mật sao
- Nhục quế 1 lạng, bỏ vỏ
- Phụ tử 1 lạng, thái miếng sấy khô,
- Bào chế viên với mật.
Thận hư thiên về phần khí không đủ thì bỏ Mạch môn, Ngũ vị, gia Ngưu tất, Đỗ trọng đều 5 lạng, trộn đều với muối rượu rồi sao, tán nhỏ, dùng Thục địa giã nhừ bỏ thuốc vào luyện mật làm viên mỗi sáng sớm đói lòng uống 4 đồng cân.
Phế khí thiếu thì dùng bài Sinh mạch ẩm sắc làm thang mà uống, nếu có hỏa bốc chưa về nguồn thì nấu nước muối nhạt làm thang mà uống. Nếu thiên về dương hư thì sắc Độc sâm thang mà uống.
10. Tráng dương cố bản địa hoàng hoàn: Chữa nguyên dương suy bại quá mức
- Thục địa 2 cân, nấu bỏ bã, ngào thành cao 12 lạng
- Sơn dược 6 lạng, sao vàng
- Sơn thù 6 lạng, chưng với rượu sao
- Phục linh 4 lạng, tẩm sữa sấy khô
- Lộc nhung 3 lạng, bỏ lông tẩm mỡ sữa nướng
- Lộc giao 4 lạng, bỏ vào rượu cho tan ra
- Phá cố chỉ 4 lạng, trộn với muối rượu sao thơm
- Ngũ vị 2 lạng, tẩm rượu mật sao
- Câu kỷ 8 lạng, ngào riêng thành cao 4 lạng
- Trạch tả 3 lạng, sao muối
- Phụ tử 1,5 lạng thái ra, sấy khô
- Nhục quế 1,5 lạng, bỏ vỏ
- Rau thai 1 cái, dùng cây kim bằng bạc, châm cho ra máu, dùng nước dòng sông rửa cho sạch, rửa rượu xông tẩm rượu mà nướng, giã nhừ bỏ vào thuốc.
Các vị tán nhỏ, dùng Thục địa, Rau thai, Lộc giao, Câu kỷ 4 loại cao cho vào thuốc đã tán làm viên, lúc đói lòng uống 4 – 5 đồng cân, sắc nước Sâm làm thang mà uống, đến trước bữa ăn chiều uống 3 – 5 đồng cân, dùng rượu nóng làm thang.
11. Phương án bài Cố bản thập bổ hoàn
Thường dùng không có vị Lộc nhung để chữa người lớn trẻ con thận nguyên bất túc, tỳ vỵ hư yếu so với bài Bát vị thì công hiệu càng hơn.
- Thục địa 8 lạng, nước rượu nấu nhừ
- Sơn thù 5 lạng, chưng với rượu sao khô
- Sơn dược 6 lạng, sao vàng
- Phục linh 4 lạng, tẩm sữa sấy khô
- Ngưu tất 4 lạng, sao với rượu muối
- Đỗ trọng 3 lạng, tẩm muối rượu sao
- Ngũ vị 1,2 lạng, sao với mật
- Phụ tử 1,5 lạng, sấy khô
- Nhục quế 1,5 lạng bỏ vỏ
- Lộc nhung 1 cỗ béo, non, tía, nhuần, bỏ hết lông, sao xộp vàng.
Các vị tán nhỏ, dùng Thục địa giã nhừ, bỏ vào thuốc luyện với mật làm viên, mỗi sáng sớm đói lòng uống 5 – 6 đồng cân với nước muối nhạt đun sôi rồi ăn cơm ngay để chận lên.
Lời bàn:
- Xét trong Nội kinh nói: “Vị trọc trong chất trọc làm rắn mạnh gân xương”. Lại nói: “Tinh không đủ thì lấy vị mà bổ”, nếu không dùng Thục địa vị hậu, tính bẩm chí âm trong địa khí, trọng trọc thì có bổ âm được đâu, nhưng sắc vàng là được màu sắc chính của thổ cho nên vào cả tâm tỳ, chưng phơi cho đến sắc đen thì giảm bớt tính hàn mà chuyên ôn bổ can thận.
- Vả thận âm đã thiếu thì mộc mất đồ dinh dưỡng mà can huyết chắc khó có thừa, cho nên hư thì bổ mẹ khiến cho mẹ có thể sinh nuôi con, tức là vị Thục địa, càng hư thì lại càng bổ con là sợ hư thì trộm khí của mẹ cho nên dùng Sơn thù để bổ thêm cho can, vả lại tinh cần giữ vững mà sợ thoát, vị Sơn thù chua chát càng có thể có tác dụng thu liễm giữ vững tinh tủy để giúp chức năng đóng kín của thận
- Vị Sơn dược ngọt mặn đã bổ tỳ mà còn vào thận là theo hóa nguyên.
- Vị Phục linh tính đạm thấm chuyển đưa tinh ba xuống, có thể vào thận, không như vị Trạch tả uống lâu thành tệ hại tổn âm, nhưng thận ở dưới cùng, không có sức của vị Ngưu tất đưa xuống mạnh thì có suốt đến được đâu, huống chi cùng đi với Đỗ trọng thì làm cứng cáp gân cốt để làm tá sứ cho Thục địa, nhưng vạn vật sinh ở dương chứ không sinh ở âm, như mùa xuân mùa hạ thì sinh nở lớn lên, mùa thu mùa đông thì heo hắt, cho nên dùng Thục địa, Sơn thù một loại thuốc chữa phần âm, lại kèm vị Nhục quế cay ngọt để bổ chân hỏa ở mệnh môn, Phụ tử tính mạnh dữ để nhóm lại khí dương hòa đã khô, khiến cho âm theo dương mà lớn lên vì không có dương thì âm không do đâu mà sinh, nhưng chỉ có loại cây cỏ vô tình nên phải mượn loài khác là loài tinh huyết hữu tình như Lộc nhung hươu bẩm tính thuần dương, nhung có bao hàm cái cơ chế sinh sôi phát triển để giúp cho bài thuốc thảo mộc mà bổ mạnh làm cho từ vô tình mà biến thành loài hữu tình.
- Đã bổ hỏa này cho yên được vị trí thì thủy cũng sẽ được về chỗ nguồn gốc mà thành tượng quẻ Khảm, một hào dương xen vào giữa hai hào âm, muôn bệnh đều không còn dấu hiệu phát sinh lớn mạnh được nữa. Khốn nỗi, người ta ở giữa khoảng khí giao động nhiều mà tĩnh ít, động thì hóa ra hỏa, thực sợ thuốc cay nóng thừa thế vượt lên trên lại phải cho vị chua vào để thu liễm lại, gia vị mặn để đưa xuống đó là Ngũ vị. Huống chi nó thu liễm phế kim mà nuôi thêm thận thủy, sinh tân dịch mà mạnh chân âm, công dụng chuyên thu nạp khí chứa vào nguồn.
- Nội kinh nói: “Năm tạng là chỗ chứa tinh cho nên tạng không có phép tả được”. Còn như thận là nơi tàng chứa tinh, là nơi chí âm, có hư mà không có thực, có bổ mà không có tả được. Phương thư nói: “Mười phần bổ không có một phần tả” là nói phương này.
12. Gia giảm Bát vị địa hoàng thang
- Thục địa 8 đồng đến 1 lạng
- Sơn thù 2 đồng
- Sơn dược 2,4 đồng
- Phục linh 1,5 đồng
- Ngưu tất 2 đồng
- Trạch tả 1 đồng
- Mạch môn 3 đồng
- Ngũ vị 6 phân
- Nhục quế 1 đồng
Nước 3 bát to, sắc còn 1 bát uống ấm trước khi ăn, ngày uống 2 lần, sắc lại bã mà uống rồi ăn cơm ngay để chận lên, sau khi uống được vài thang thì sốt lui, ho bớt, 6 mạch hồng hoãn vô lực, thân thể mỏi mệt thì cứ chiếu như phương trước, sắc Sâm hòa vào mà uống, bớt rồi thì mỗi buổi sáng nấu muối nhạt làm thang để uống 4 – 5 đồng cân Bát vị hoàn rồi lấy một hoàn to Bồi dưỡng vinh vệ cao tư, nấu nước sôi hòa vào mà uống, ấy cũng như đốt đèn mà thêm dầu mỡ.
Không kể xuân hay hạ, thu hay đông, hễ ho không khỏi, khạc đờm dính đặc, mình nóng, xương đau, đầu choáng váng, mắt sưng, hoặc sợ lạnh, 6 mạch huyền sác, bắp thịt ngày càng róc, đêm không ngủ được, thậm chí khoảng hai má sưng cứng đều nên dùng thang này.
Xét tạng phế ở trên hết, khí trong trẻo nhất, nếu không có cái gì để thúc bách thì có lo gì ho hen chẳng yên, cái thúc bách nó không ngoài ngoại cảm phong hàn, trong vì khí đờm hỏa mà thôi. Nhưng mới cảm phong hàn thì trị thẳng vào phong hàn. Nếu vì hơi uất lâu thành ra nóng thì tạng phế non nớt dễ bị tổn thương, những vị hàn lương phát tán đều nên cần dùng.
Vì thường thường thận thủy hao kém trước, phế kim bị mất sự tư dưỡng lâu rồi nhân chứng thương phong mới truyền nhiễm vào mà thành ho, chuyển thành chứng lao trái nặng nề khẩn cấp, nếu không nhận thức sớm cứ theo chứng tiêu (ngọn) để trị thì sau cứu không kịp.
Tôi thường gặp chứng này, nóng dữ ghét lạnh, ho hen, uống nước luôn, khạc ra đờm quánh đặc, tinh thần uể oải, da thịt ngày càng teo róc, sáu mạch hồng huyền mà sác, lâu thì vô lực, đang lúc ấy nếu muốn tiêu đờm, chỉ để giúp thêm cho thế khô ráo, đờm này là nước tràn lên mà hóa ra, không phải thuốc trị đờm mà tiêu đi được, nếu thanh hỏa chỉ làm tổn thương vị khí, vì hỏa này là hỏa vô hình không phải thuốc hàn lương mà dập đi được, nếu vị khí chỉ làm cho hao tán chân nguyên, khí này là khí rất quý ở đan điền, vì không có âm để giúp nhau, bất đắc dĩ mà bốc nổi lên, không phải Tang bì, Quất hồng mà trị nổi được, tân dịch ngày càng hao thì tiêu mòn ngày càng quá, âm càng thiếu hỏa càng thịnh, vinh đi ở trong mạch, cho nên mạch hồng sác không có thứ tự, cũng vì thế bức bách chân hỏa trong thủy bốc cháy lên, nóng quá thấu đến xương là chứng hậu tráng hỏa xâm lên kim, thiêu đốt khó chịu.
Nếu không trọng dụng phương thuốc bổ thủy trong hỏa thì sao thấm dịu được cái thế cạn rãnh cháy dòng, thường dùng bài Bát vị bỏ Phụ tử, gia bội Thục địa, thêm Ngưu tất, Mạch môn, Ngũ vị vào làm một đại tễ, ngày uống hai thang, uống ấm trước bữa ăn để cho chân hỏa chứa về nguồn, long lôi hỏa tự tắt, một khi chân âm đã hồi phục được, nơi sém cháy dần dần tươi lại, dần dần sẽ thấy chứng nóng âm ỉ trong xương không có mồ hôi biến ra có mồ hôi mà nóng khỏi, nhưng một khi hỏa đã hư, nếu chân nguyên hư quá tất phải mệt mỏi thì nên tiếp tục bổ khí, chân âm đã thiếu đến cực độ, thì một khi chân dương hồi phục sẽ khó trừ được chứng khô táo thì phải nên gia công bổ thủy. Đang lúc này, bệnh nóng mà dùng thuốc nóng, thế tất làm cho người ta sợ, nhưng bệnh ở bản (gốc) mà chữa bản (gốc) là cần thiết nhất.
Hải Thượng Lãn Ông Y Tôn Tâm Lĩnh
Bùi Gia.