YHCT <10> Bát cương

Trước triệu chứng phức tạp của bệnh tật, người thầy thuốc phải dựa vào bát cương để đánh giá được vị trí, tính chất, trạng thái và xu thể hướng tiến triển của bệnh tật, giúp cho công việc chẩn đoán nguyên nhân bệnh và đề ra được các phương pháp chữa bệnh chính xác và có hiệu quả.

Bát cương bao gồm: biểu và lý (ngoài, trong); hàn và nhiệt (nóng, lạnh); hư và thực; âm và dương. Trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát, nên gọi là tổng cương.

I. NỘI DUNG BÁT CƯƠNG
1. Biểu và lý
Chẩn đoán về giai đoạn của bệnh
Biểu và lý là hai cương lĩnh đầu tiên trong 8 cương lĩnh để xác định về bệnh tật, chức năng của nó là đánh giá và xác định vị trí nông sâu của bệnh tật, giúp cho khả năng tiên lượng bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp (bệnh tại biểu thường dùng các phép phát tán, bệnh tại lý thì hay dùng các phép thanh, hạ, ôn, bổ ..)
a. Biểu chứng
Thường do ngoài tà gây bệnh
Bệnh ở biểu hay bệnh ở phần vệ để nói bệnh còn ở bên ngoài, ở phần nông (gân xương, cơ nhục, kinh lạc, bệnh mới mắc hay bệnh còn ở giai đoạn đầu khởi phát của bệnh (ví dụ: các bệnh thuộc cảm mạo, các bệnh truyền nhiễm…)
Các triệu chứng biểu hiện của bệnh trên lâm sàng:
  • Phát sốt sợ gió
  • Sợ lạnh
  • Đau đầu
  • Đau mình mẩy
  • Ngạt mũi và ho
  • Rêu lưỡi trắng mỏng
  • Mạch phù
  • Các triệu chứng khác ..
b. Lý chứng
Là chỉ bệnh ở bên trong, ở sâu, thường là bệnh thuộc các tạng, bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn toàn phát có biến chứng gây mất tân dịch (nước, điện giải, máu) theo y học cổ truyền gọi tổn thương đến phần dinh – khí - huyết. Các biểu hiện trên lâm sàng:
  • Sốt cao – khát
  • Mê sảng, vật vã
  • Chất lưỡi đỏ, rêu vàng
  • Nước tiểu đỏ, ít
  • Nôn, đau bụng
  • Phân táo hoặc ỉa chảy.
  • Mạch trầm
Bệnh ở lý có thể từ ngoài truyền vào, nhưng cũng có thể là do tà khí trúng ngay tạng phủ, nguyên do tình chí làm rối loạn hoạt động của các tạng phủ
Sự phân biệt bệnh tại biểu hay tại lý thường dựa vào các tiêu chí sau:
  • Sốt cao hay sốt kèm theo sợ lạnh
  • Chất lưỡi đỏ hay nhạt
  • Rêu lưỡi vàng hay trắng
  • Mạch phù hay mạch trầm
Biểu và lý còn có sự phổi hợp khác nhau với các cương lĩnh khác như với hư và thực, với hàn và nhiệt, có cả sự thác tạp giữa biểu chứng và lý chứng
2. Hàn và nhiệt
Chẩn đoán tính chất bệnh
Hàn và nhiệt là hai cương lĩnh đánh giá tính chất của bệnh, giúp cho thầy thuốc chẩn đoán các loại hình của bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh hợp lý (bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn; nhiệt thì châm, hàn thì cứu).
a. Hàn chứng
  • Với các triệu chứng: sợ lạnh, thích ấm, miệng nhạt không khát, sắc mặt xanh trắng, tay chân lạnh, nước tiểu trong dài, đại tiện thì lỏng, chất lưỡi thì nhạt, rêu lưỡi trắng trơn ướt, mạch trầm trì.
b. Nhiệt chứng
  • Với các triệu chứng: sốt hoặc sốt cao nhưng thích mát (ăn và uống …), sắc mặt đỏ, tay chân nóng. tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện thì táo. chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng và khô, mạch sác
Sự phân biệt hàn chứng và nhiệt chứng tập trung vào các triệu chứng sau: Sốt nhưng sợ nóng hay lạnh , thích ấm hay mát; khát hay không khát; sắc mặt đỏ hay trắng xanh; tay chân nóng hay lạnh; tiểu tiện đỏ ít hay trong dài; đại tiện táo khô hay ỉa chảy; rêu lưỡi vàng hay trắng; mạch trì hay mạch sác.
Hàn chứng thuộc về âm thịnh và nhiệt chứng thuộc dương thịnh. Hàn nhiệt còn phối hợp với các cương lĩnh khác như biểu lý, hư thực, ngoài ra còn có hàn nhiệt lẫn lộn, thực giả.
3. Hư và thực
Đánh giá trạng thái người bệnhtác nhân gây bệnh - mức độ bệnh
Hư và thực là hai cương lĩnh dùng để đánh giá trạng thái người bệnh và tác nhân gây bệnh, để thấy thuốc áp dụng nguyên tắc điều trị bệnh (hư thì bổ mẹ, thực thì tả con)
a. Hư chứng
  • Biểu hiện của chính khí suy yếu (không đầy đủ), nên sự phản ứng (đề kháng) của cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh giảm sút. Chính khí của cơ thể (đề kháng) bao gồm 4 mặt chính là Âm, Dương, Khí, Huyết, trên lâm sàng có biểu hiện triệu chứng của chính khi giảm sút là âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư
  • Những biểu hiện chung triệu chứng trên lâm sàng là: tinh thần thì yếu đuối, sắc mặt thì trắng bợt, người thì mệt mỏi không có sức, thể trạng sút cân gầy, hay hồi hộp thở ngắn, đoản hơi và khí, ngại nói, tự ra mồ hôi hoặc mồ hôi trộm, tiểu nhiều lần hoặc không tự chủ, chất lưỡi nhạt, mạch thì tế nhược….
b. Thực chứng
Là do cảm phải ngoại tà hay do khí trệ, huyết ứ, đàm tích, ứ nước, giun sán gây bệnh, các biểu hiện chính trên lâm sàng là: tiếng thở thô mạnh, phiền táo, ngực bụng đầy chướng, đau cự án, phân táo, mót rặn, bí tiểu tiện, đái buốt và rắt, rêu lưỡi vàng mạch thực hữu lực.
Sự phân biệt hư và thực chứng căn cứ vào các tiểu chí sau:
  • Bệnh cũ hay bệnh mới
  • Tiếng nói, hơi thở nhỏ hay to
  • Dấu hiệu cự án hay thiện án
  • Chất lưỡi dày cộm hay mềm bệu
  • Mạch vô lực hay hữu lực
Hư và thực còn phối hợp với các cương lĩnh khác: hư thực lẫn lộn, thực giả lẫn lộn
4. Âm và dương
Âm dương là hai cương lĩnh tổng quát để đánh giá xu thế chung của bệnh tật, vì những hiện tượng, hàn, nhiệt, hư, thực, luôn luôn phối hợp và lẫn lộn với nhau. Sự mất thăng bằng của âm dương biểu hiện bằng sự
  • Thiên thắng ( âm thịnh và dương thịnh)
  • Thiên suy (âm hư, dương hư, vong dương và vong âm)
Thiên thắng
a. Âm chứng và dương chứng:
  • Âm chứng thường bao gồm các chứng hư và hàn;
  • Dương chứng thường bao gồm chứng thực và nhiệt
Âm chứng (âm thịnh) Dương chứng (dương thịnh)
Người lạnh, tay chân lạnh, tinh thần mệt mỏi, thở nhỏ, thích ấm, không khát, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng, nằm quay vào trong, sắc mặt trắng, lưỡi nhạt, mạch trầm nhược Tay chân ấm, tinh thần hiếu động (hưng phân, kích động), thở to và thô, sợ nóng, khát nước, nước tiểu đỏ, đục và ít, đại tiện thì táo, nằm quay ra ngoài, sắc mặt đỏ, mạch hoạt sác, phù sác hữu lực

Thiên suy
b. Âm hư và dương hư:
  • Âm Hư: Do tân dịch, huyết không đủ; phần dương trong cơ thể nhân âm hư, nổi lên sinh ra chứng hư nhiệt gọi là “âm hư sinh nội nhiệt”
  • Dương hư: Do các công năng trong người bị giảm sút, dương khí ra ngoài, phần vệ bị ảnh hưởng, nên sinh ra chứng sợ lạnh, chân tay lạnh “dương hư sinh ngoại hàn”
Âm hư Dương hư
Triều nhiệt, nhức trong xương, ho khan, họng khô, hai gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, vật vã, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác Sợ lạnh, chân tay lạnh, ăn uống chậm tiêu, di tinh liệt dương, đau lưng, mỏi gối, rêu lưỡng trắng, chất lưỡng nhạt, ỉa chảy, tiểu tiện trong dài, mạch nhược, vô lực

c/ Vong dương và vong âm:
  • Là hiện tượng mất nước, do ra, nôn, mồ hôi và ỉa chảy nhiều. Vì âm và dương nương tựa vào nhau, nên khia mất nước và điện giải đến một giai đoạn nào đó sẽ gây ra tình trạng vong dương, tức là choáng và trụy mạch hay còn gọi là thoát dương.
Chứng Mồ hôi Tay chân Lưỡi Mạch Các chứng khác
Vong âm Nóng và mặn
không dính
Ấm Khô Phù vô lực
mạch xích yếu
Khát, thích uống
nước lạnh.
Vong dương Lạnh, dính,
vị nhạt
Lạnh Nhuận Phù sác, vô lực.
Hoặc vi muốn
tuyệt
Không khát,
thích uống
nước nóng

II. SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƯƠNG LĨNH
1. Biểu, lý, hàn, nhiệt
Gồm 4 chứng: biểu hàn, biểu nhiệt, lý hàn, lý nhiệt.
Chứng Triệu chứng trên lâm sàng Tên bệnh thường gặp
Biểu hàn Sợ lạnh nhiều, sốt ít, đau người, không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn Cảm mạo phong hàn
Biểu nhiệt Sợ lạnh ít, sốt nhiều, miệng hơi khát, có mồ hôi, đầu lưỡi đỏ, mạch phù sác Cảm phong nhiệt; ôn bệnh ở phần vệ ( bệnh truyền nhiễm)
Lý hàn Người lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt trắng xanh, không khát, thích uống nước nóng, ít nói, tiểu tiện trong, đại tiện lỏng, rêu trắng, lưỡng nhạt, mạch trầm trì Thận dương hư hàn, tỳ vị hư hàn.
Lý nhiệt Mặt đỏ, người nóng, miệng khô khát, thích nước mát, phiền táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hồng sác Nhiệt tại khí phận (nhiệt ở dương minh)

2. Biểu, lý, hư, thực
Gồm 4 chứng: biểu hư, biểu thực, lý hư, lý thực
Chứng Triệu chứng trên lâm sàng Tên bệnh thường gặp
Biểu hư Tự hãn (ra mồ hôi), sợ lạnh, rêu lưỡng trắng mỏng, mạch phù hoãn Cảm phong hàn/ thể trúng phong
Biểu thực Không có mồ hôi, sợ lạnh, đau mình, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn Cảm mạo phong hàn/ thể thương hàn
Lý hư
Lý thực
Nội dung giống như hư thực trong phần bát cương

III. THÁC TẠP GIỮA CÁC CƯƠNG LĨNH
1. Biểu lý thác tạp
Trên một người bệnh vừa có các triệu chứng, chứng bệnh ở biểu và vừa có ở lý, còn được gọi là biểu lý đồng bệnh , khi chữa bệnh phải chữa phần biểu và vừa chữa phần lý, gọi là biểu lý song giải.
  • Ví dụ: người bệnh có triệu chứng sốt, sợ lạnh (biểu chứng), nhưng lại có triệu chứng vật vã, khát nước (lý chứng). vậy nên trong điều trị vừa giải biểu bằng các vị Ma hoàng, Quế chi và vừa thanh nhiệt sinh tân bằng Thạch cao…
2. Hàn nhiệt thác tạp
  • Trên một người bệnh vừa có chứng hàn vừa có chứng nhiệt, có thể có các thể bệnh như sau: biểu hàn lý nhiệt, biểu nhiệt lý hàn, hoặc tạng phủ này hàn tạng phủ kia nhiệt.
3. Hư thực thác tạp
Chứng hư và chứng thực cùng xuất hiện:
  • Ví dụ: Trong bệnh truyền nhiễm bệnh nhân sốt cao, mạch nhanh, nước tiểu đỏ…, là triệu chứng của thực chứng, nhưng sốt làm cho tân dịch bị mất gây táo, vật vã và mê sảng (âm hư) thuộc hư chứng
  • Bệnh nhân thể tạng yếu thuộc hư chứng, lại mắc thêm bệnh cảm mạo: có các triệu chứng như sốt, đau mình mẩy, ngạt mũi ( thực chứng), gọi là hư trung hiệp thực
IV. HIỆN TƯỢNG CHÂN GIẢ
Hiện tượng chân giả là hiện tượng triệu chứng của bệnh xuất hiện không phù hợp với bản chất, nguyên nhân của bệnh. Có hai thể bệnh sau:
1. Chân hàn giả nhiệt
Do bên trong chứng âm hàn mạnh, bức dương khí ra ngoài. Hoặc là sự chuyển hóa của quy luật hàn cực sinh nhiệt của bệnh tật.
VD: chứng (bệnh) ỉa chảy do lạnh (chân hàn) nhưng do mất nước (tân dịch và điện giải) gây triệu chứng khát, vật vã, miệng khô, mình nóng, thậm chí có sốt cao và co giật (giả nhiệt)
Chân hàn Giả nhiệt
Đau bụng, ỉa chảy, nôn mửa, tay chân lạnh, mồ hôi tự chảy, nói nhỏ, ăn ít, đầy bụng, tiểu tiện trong trắng, chất lưỡi mềm bệu, rêu lưỡi trơn, mạch trầm vi muốn tuyệt Phiền táo khát nước ( giả nhiệt), nhưng không muốn uống (chân hàn), miệng mũi khô, có khi chảy máu, mắt đỏ, mình nóng (giả nhiệt), nhưng ấn sâu không thấy nóng (chân hàn)
2. Chân nhiệt giả hàn
Bên trong là nhiệt nhưng giả hàn bên ngoài, như trong các bệnh truyền nhiễm do độc tố gây trụy mạch ngoại biên, với triệu chứng chân tay lạnh, mạch vi (giả hàn)
Chân nhiệt Giả hàn
Hơi thở thô và nóng, họng khô miệng khô, rêu lưỡi vàng đen, rất khát, nói sảng, bụng đầy chướng, ấn vào đau, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo Tay chân quyết lạnh ( giả hàn), nhưng không muốn mặc áo (chân nhiệt), mạch trầm trì (giả hàn), ấn xuống thấy mạch đập mạnh và hữu lực (chân nhiệt)

V. HIỆN TƯỢNG BÁN BIỂU BÁN LÝ
Có những bệnh không ở biểu mà cũng không ở lý gọi là bán biểu bán lý.
  • Trong sách thương hàn luận thì chứng này thuộc về bệnh ở kinh thiếu dương (thái dương là biểu bệnh, dương minh là lý bệnh). Khi chữa bệnh không thể dùng phương pháp giải biểu được (bệnh không phải ở biểu) và không thể dùng phương pháp thanh hạ được (bệnh không phải ở lý), trong trường hợp này phải dùng phương pháp hòa giải gọi là hòa giải thiếu dương.
  • Trên lâm sang có biểu hiện của các triệu chứng như: lúc nóng lúc lạnh (hàn nhiệt vãng lai), ngực sườn đầy tức, miệng đắng, lợm giọng, buồn nôn, họng khô, mắt hoa, mạch huyền …
Nguồn: Y hoc can ban
Bùi Gia.